Nam nhờ tinh thần phú quý
Đó là căn bản tướng lý phân biệt nam nữ. Con trai thì tinh sinh
thần, con gái thì huyết nuôi mạng. Con trai mà tinh khô tất chết. Con
gái huyết khô mạng vong. Tinh làm chủ, xem tướng ở đâu? Trên trời, mặt
trăng, mặt trời là tinh hoa, con người có hai mắt là tinh thần. Thần là
mầm của tinh. Tinh khoẻ nên thần sáng. Thần sáng thì mắt thanh tú. Cho
nên trai cần có đôi mắt hắc quang sạ nhân (như bắn vào người). Sách
viết:
- Nhãn như điểm tất chung thân gia nghiệp vinh hoa
Thần túc khí túc bạch thủ sáng thành gia nghiệp.
Nghĩa là:
Mắt đen như điểm sơn, suốt đời vinh hoa.
Thần đủ khí đủ tay trắng gây dựng cơ đồ.
Bởi thế, con trai mới lấy tinh thần làm chủ. Con gái lấy huyết khí làm chủ thì chứng nghiệm ở đâu?
Huyết ở trong da, sắc ở ngoài da. Trong da nếu huyết đủ thì ngoài
da sắc càng đẹp. Huyết nội, sắc ngoại một là rễ, một là cây non. Có rễ,
có cây, rễ tốt tất cây tốt. Có huyết mới có sắc. Huyết bầng lên để thành
khí tạo sắc. Cho nên phải đủ khí huyết mới hay. Nhược bằng huyết tốt mà
sắc không nhuận là có rễ mà không có cây, hoặc sắc sáng đẹp mà trong vô
huyết gọi là hữu miêu vô căn chủ, là dâm tướng. Nếu huyết nhuận mà bất
hoa (nghĩa là không có những lốm đốm hồng mờ mờ) thì yếu. Sắc sạm, môi
khô là yểu hoặc khó sinh sản. Tóc là chất dư của huyết, nếu tóc thưa,
mỏng vàng, ngắn thì không tốt. Tóc xanh chủ quý, dài chủ hiền. Tóc xoăn
trôn ốc, vàng, ngắn là tiện tướng, hại chồng hại con. Con trai mắt sáng,
con gái đầy đều tốt. Ca dao có câu: Đàn bà tóc tốt thì sướng là có
nghĩa vậy.
Sách tướng viết:
Cũng như đàn ông, khí sắc hung của đàn bà được chia ra về sắc thì
có: Hại sắc – Tán sắc - Biến hung sắc - Kiền trệ sắc - Hoạt diệm sắc –
Quang phù sắc.
Về khí thì có: Khí trệ - Khí hôn ám – Khí loạn – Khí bạo – Khí chấp – Khí thanh.
A. Hại sắc gồm 6 loại:
1) Sơn căn đỏ rực, lo tai nạn về lửa.
2) Ấn đường xanh, dễ bị liên luỵ phiền phức.
3) Lỗ mũi đỏ, hoại tài hao của.
4) Địa các đen, lo tai nạn về sông nước.
5) Từ khố (tức thiên sương và hai bên hàm) ám hãm, chủ gặp nữ hoạ hoặc nam hoạ.
6) Nhãn thần hôn ám hoặc vàng khè, chủ đại hại.
B. Tán sắc gồm có 6 loại:
1) Đầy mặt hoa tạp đen trắng hồng lẫn lộn.
2) Mặt trắng bệch bạc, vô khí.
3) Chốc lại sáng sủa, chốc lại hôn ám.
4) Mặt sáng mà tại mũi ám hãm.
5) Nhãn quan phù phiếm (nổi sáng).
6) Có sắc mà vô khí.
Đều chủ hư hao tài bạc.
C. Biến hung sắc gồm ba loại:
1) Sắc sáng mà mắt mờ đục.
2) Hồng hốt chuyển thành đen.
3) Vàng chợt chuyển thành như cháy khô.
Đều chủ hung.
D. Kiền trệ sắc gồm chín loại:
1) Tam dương không mờ sáng, tiến thoái đều bất lợi.
2) Tứ khố như bùn, chủ hình khắc con cái, vợ con.
3) Tai, mũi như ám khói, bần khốn.
4) Sắc mặt u ám, tai ách.
5) Sắc mặt hơi sáng, mắt lại lờ đờ, phá hoại.
6) Mặt đỏ như lửa, bị trộm cướp.
7) Mặt bóng loáng như xoa dầu, hình khắc.
8) Mặt vàng mà đục ám, tróc thọ.
9) Sắc đỏ pha đen, đại hung.
E. Trệ sắc gồm 5 loại:
1) Mặt trắng mà khô là kim trệ, bần khổ.
2) Mặt xanh hôn ám vô quang là mộc trệ, tai ách.
3) Mặt đen như tro than, mây đen là thuỷ trệ, quan hình.
4) Mặt đỏ rần rần mà khô là hoả trệ, phá tán tài.
F. Hoạt diện sắc là cái sắc đờ đờ bên trong không có thần khí tương ứng, mọi việc đều sẽ phải bại hoặc thụ hình mất chức.
G. Quang phù sắc là cái sắc lì lì như bôi phấn lên mặt là gốc rễ của bách hoạ.
- Khí trệ, chủ ám chuân chuyên.
- Khí hôn ám, chủ cô độc, bần hàn.
- Khí loạn, chủ tật bệnh, yểu triết.
- Khí phù hoa, chủ bại gia.
- Khí bạo, chủ tai hoạ.
- Khí chấp, chủ đoản thọ.
- Khí hoành, chủ hình khắc.
BÀN THÊM VỀ PHÉP PHỐI HỢP CỦA THUẬT COI TƯỚNG.
Tướng học là cái học kiến
trúc con người ta, cho nên nguyên tắc căn bản của tướng học chính là
nguyên tắc kiến trúc vậy. Tỷ dụ ta nói: nhục bất xứng cốt, thịt nhiều
xương ít thì xương ít ví như móng cột yếu ớt, toà nhà sẽ bị huỷ hoại.
Tướng học cũng là mỹ học nữa, đã đẹp thì cái đẹp cần được phối hợp.
Thế gian cực hiếm người mười phân vẹn cả mười. Đa số được một hay
hai điểm tốt. Những điểm tốt ấy sẽ thành xấu nếu nó không có sự phối hợp
với những cái đẹp khác. Nó ví như uống rượu trên sông phải có ánh trăng
mới tuỵệt thú.
Tỷ dụ: mặt thô nhưng có đôi mắt đẹp thì đôi mắt đẹp ấy cứu gỡ cho tướng cách rất nhiều.
Bởi vậy cần phải biết cách phối hợp. Phép phối hợp của tướng thuật căn cứ trên lý luận của mỹ học.
Đại lược, phép phối hợp như sau:
a) Nhân phẩm pháp. – Dương khí hoà mãn trên mặt, lúc nói
chuyện mặt mày không biến sắc, thần khí thung dung không lạc giọng nói,
mắt sáng, cử chỉ ôn thuần, không đóng kịch, không che đậy. Nếu trong ngũ
quan có một trong hai quan tốt, vận đến tất phát đạt. Nếu một trong hai
quan xấu, hung sự cũng giảm bớt. Sách gọi là trung hoà thượng phẩm.
Dương khí hoà mãn diện, lúc nói chuyện vẻ mặt biến sắc, nếu ngũ
quan có vài điểm hãm hoặc kỵ thì không nên nói nhiều, thanh âm biến điệu
tức là mỹ, ác lẫn lộn thì phải quyền biến uyển chuyển.
Đầy mặt âm khí mà cử động thung dung, thanh âm bất biến tức là bên
trong có chứa phẩm chất đơn thuần. Ở trường hợp hiện lên khí sắc bạo
phát thì nên cẩn trọng xét việc cho tường có thể tránh được hung tai.
Đầy mặt âm khí, cử chỉ lúng túng, ăn nói ngập ngừng là người đang ở vào hoàn cảnh xấu.
Mãn diện dương hoà, lúc đàm luận kiêu căng tự thị nhưng mặt có đức
sắc nếu thuận tính thì làm được việc, hễ cáu giận thì mọi sự hỏng.
b) Bần phú pháp: Nếu tướng giầu hiện lên mặt cần phải có cái
bụng phối hợp, có đôi mông làm căn cứ. Tướng giầu ở lưỡng quyền cần có
mũi làm kho đụn và môi làm sự chi thu. Hiện ở mũi thì hai cánh mũi đầy
đặn bằng bặn, lỗ mũi vừa vặn. Hiện ở mắt tất phải xem phối hợp của ấn
đường. Hiện ở tai (tỉ dụ tai trắng hơn mặt rất giàu) hãy xét lỗ tai và
dái tai. Hiện ở thân thì nhìn eo tròn đầy. Hiện ở tay thì bàn tay thật
dầy, da dẻ nhuận.
Bẩy cách trên đây nếu có tiếng nói đúng cách nữa tất là người giàu có lớn, nếu tiếng nói bất ứng thì cũng sung túc.
Tướng nghèo hiện lên mặt mà bụng óp, mồm lép, nghèo suốt đời. Hiện
lên lưỡng quyền, mũi hếch, môi dúm nhiều lúc thiếu ăn. Hiện lên mũi,
lang đài đình uý (hai cánh mũi) mỏng, tóp nợ như chúa chổm. Hiện lên mắt
thêm ấn đường lõm hãm, cực khổ. Hiện lên thân, co thắt, cả đời không có
nhà ở. Hiện lên tai, lỗ tai nhỏ quá, không có dái tai thì vừa ngu vừa
nghèo. Hiện lên bàn tay gân guốc gầy gò, nghèo, cay đắng.
Bẩy cách trên đây nếu có tiếng nói ưởng lượng thì còn đủ ăn đủ mặc. Nếu tiếng nói bất tương ứng thì tối ngày xuôi ngược.
c) Cực phú cực bần pháp. – Lông mày trông vui như ẩn ngũ
sắc, mắt sáng rực rỡ, thanh âm ưởng lượng, giầu mầy đời. Sống mũi cao
đẹp, lưỡng quyền đầy đặn, tiếng nói như chuông đồng, đất ruộng thẳng
cánh cò bay. Bàn tay đầy ụ, mềm mại, tiếng nói vang vang, giỏi làm giàu,
dễ làm giàu.
Nhất lộ, nhị lộ (mắt lộ, mũi hếch, tai lộn vành), tinh thần ám đục, có áo không quần.
Đầu nhọn, đít óp, thanh âm trệ, ăn mày. Bụng chân như que củi, mặt khô xác, tiếng nói lí nhí hoặc ồ ạt, nghèo tứ cố vô thân.
d) Vận khí thịnh suy pháp: - Thịt đùn đùn làm cho eo nở tròn
là đang chuyển vận tốt. Thịt ùn ùn kéo đi mất là thoát tài. Diện thiếu
hoa sắc, thanh không hoà điệu, cả đời thất bại. Mặt hiện quang thái,
thanh âm ưởng lượng, vận sắp hay. Trong thịnh vận hay nói phũ, nói bậy
là có ẩn ưu phiền. Trong bại vận, ý chí nhẫn nại kiên trì là có thể trở
lại tốt. Suốt đời tự tin, không lo bại hoại. Gặp người hay lúng túng,
tuy thành rồi cũng bại. Cầu toàn ở tiếng nói, thanh âm hỏng, vận khó
thành. Trí tuệ ở hai tai, tai như bít, vừa ngu vừa vô vận. Tiền tài ở
mũi, mũi khô làm sao có tiền. Vành mũi sắc ám, nên giữ gìn lời ăn tiếng
nói. Ấn đường sắc đỏ, có tai nạn quan trọng. Sầu dung mãn diện vô vận.
Mãn diện quang thái, vận đang lên.
Sách có câu:
Lễ khả sức, y khả giả thần khi nan giả
Bần khả trang, phú khả sức, cốt cách nan giả
Nghĩa là:
Có thể vờ lễ nghĩa, có thể giả quần áo nhưng thần khí không giả được.
Nghèo có thể che đậy được, giầu có thể bịp loè nhưng cốt cách thì không thể giả được.
Cho nên nhìn chân tay khả dĩ định bần phú, nghe lời nói khả dĩ biết
ngọn nguồn, trông đôi mắt khả dĩ thấy lòng ruột, nghe tiếng khả dĩ hiểu
tinh thần.Mắt sáng quắc nhưng ấn đường vết phá làm gì có vận tốt. Thanh
âm mãn mãn mà ngữ vận nhỏ tất sử sự xoay sở. Thanh âm ưởng lượng nói
năng chậm rãi, vận trường cửu. Vô ý thường thở dài, tâm sự ưu tư, ngồi
lặng như ngủ là nghiệp sắp thoái bại, thịnh suy bất thường. Thanh cấp,
nói nhanh, vận không trường cửu.