Văn chương cái thế như Khổng Tử mà còn khốn ách ở nước Sái, nước
Trần, vũ lực siêu quần như Lã Vọng đành ngồi câu cá nơi sông Vị. Thầy
Nhan Hồi chết yểu đâu phải vì thầy là con người hung bạo. Bọn đầu trộm
đuôi cướp lại sống lâu, chúng nào có lương thiện gì. Vua Nghiêu, vua
Thuấn là những đấng minh quân sinh ra lũ con vô lại. Ông Cổ Tẩu tâm tính
ngang ngược thì con cái toàn người hiếu thuận. Cam La 12 tuổi làm thừa
tướng. Mãi Thần năm mươi được công khanh. Án Anh thấp bé vua Tề phong
cho chức tể tướng. Hàn Tín trói gà không chặt lên ngôi vị thống súy Hán
Triều. Lúc chưa gặp thời, cơm không đủ ngày 2 bữa, khi vận hanh thông
đoạt tam ấn Tề Vương. Triệu Xong nắm giữ hùng binh nhiều nước, một sớm
một chiều hết thời chết trong bụi rậm. Lý Quảng tay không đánh chết hổ
suốt đời vô tước lộc. Phùng Đường tài an bang tế thế đến già vẫn chưa có
chỗ dung thân.
Thượng cổ thánh hiền, chẳng ai trốn thoát vòng số mệnh âm dương.
Con người lúc sinh ra hấp thụ khí âm khí dương, chịu ảnh hưởng vận
chuyển sinh khắc chế hoá mà thành số mệnh tướng cách khác nhau.
Số mệnh tướng cách khác nhau sinh ra chết sống, giàu nghèo sang
hèn, bĩ thái cùng thông, thọ yểu thông qua thiên bẩm, cơ hội kết cục
càng thêm muôn hình muôn vẻ.
Cổ nhân sau ngàn, vạn năm kinh nghiệm đã hạ bút đặt định nghĩa dứt
khoát cho vấn đề bằng câu: “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”.
Những giọt lệ anh hùng xưa nay phần lớn liên hệ đến tướng mệnh.
Sinh thời Khổng Minh thường hoài bão cái chí: “Ở đời khác thường, làm sự
nghiệp phi thường, cùng thì tự tốt lấy ta, đạt thì đem hạnh phúc cho
thiên hạ”.
Rút cuộc, sự nghiệp phi thường nửa đường đứt gánh, độc thiện kỳ
thân chẳng xong, kiêm thiên hạ cũng hão huyền. Mặc dầu ông đã cố gắng
hết mình cúc cung tận tụy đến chết mới thôi, cộng với cái tài lược hơn
người, thế mà tâm trạng Gia Cát Khổng Minh lúc chết thật bi ai. Gượng
bệnh sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ ra trại đi xem các chỗ đóng quân.
Gió thu thổi mạnh lạnh buốt tới xương, mới thở dài than rằng:
“Từ đây ta không còn được ra trận đánh giặc nữa
Trời xanh thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi
Muôn việc chẳng qua do số vận
Người sao cưỡng được lòng trời”.
Cái lý do gây ra Cổ kim đa thiểu anh hùng lệ là tại anh hùng nan dữ mệnh tranh hoành (Anh hùng cũng khó chống lại số mệnh).
Việc đời thiên hình vạn trạng, sớm thay chiều đổi không đi ra ngoài vòng thiên số.
Bởi thế, cụ Trạng Trình mới dạy người sau:
“Khôn cũng chết, dại cũng chết. Biết thì sống”.
Biết ở đây có nghĩa là Tri mệnh.
NHỮNG CÂU CHUYỆN ĐỂ CHỨNG MINH HAI CHỮ TRI MỆNH
Chu Á Phu đương thời trọng nhậm chức Thái thú tỉnh Hồ Nam, đến nhờ Hứa Phụ xem tướng cho mình. Hứa Phụ nói:
Ba năm nữa ông được phong hầu.
Tám năm nữa ông là tể tướng.
Mười năm nữa thì ông chết đói.
Chu Á Phu cười mà rằng:
- Đã phú quý tột đỉnh như thế sao còn chết đói, xin tiên sinh chỉ dạy cho tôi biết tại sao?
Hứa Phụ nói:
- Pháp lệnh (hai vết từ mũi xuống cằm) chạy vào miệng, theo tướng
pháp gọi là rắn lao vào trong miệng là tướng chết đói. Ông có tướng đó.
Quả nhiên chính trị biến động. Chu Á Phu bị giam cầm, năm ngày không ăn thổ huyết mà chết.
Hứa Phụ xem tướng cho Đặng Thông bảo pháp lệnh nhập khẩu thế nào cũng chết đói.
Vua Hán Văn Đế không chịu phán rằng:
- Đặng Thông là triều thần của trẫm, phú quý của Đặng Thông do trẫm
định đoạt, trẫm có thể cho Đặng Thông cả núi đồng để đúc tiền.
Về sau, Đặng Thông chết đói trong nhà một nông dân đúng như Hứa Phụ tiên đoán.
Vua Hán Văn Đế gọi Hứa Phụ vào thưởng cho châu báu rất nhiều.
Hứa Phụ coi tướng Ban Siêu nói:
- Hàm én, đầu hổ bay mà ăn thịt thực là tướng vạn lý phong hầu.
Ít lâu sau, Ban Siêu bỏ văn theo võ, lập đại công uy chấn miền Tây Vực được phong làm Định Viễn Hầu.
An Lộc Sơn lúc nhỏ nghèo hèn, đi ở hầu cho Trương Thủ Khuê. Lúc rửa chân cho Khuê bỗng ngừng tay chăm chú nhìn. Khuê hỏi:
- Mày nhìn gì thế?
Lộc Sơn thưa:
- Tại tôi thấy bàn chân trái ngài có nốt ruồi lớn.
Khuê bảo:
- Đấy là cái tướng phất cờ khởi loạn của tao.
An Lộc Sơn vái chủ rồi nói:
- Thưa ngài cả hai bàn chân tôi đều như vậy.
Khuê hết sức ngạc nhiên.
Về sau An Lộc Sơn làm loạn đốt cháy kinh đô nhà Đường, khiến Đường Minh Hoàng phải bỏ chạy.
Thần Phóng ẩn cư nơi thôn dã đến thăm nhà tướng học uyên thâm Trần Hy Di.
Phóng cải dạng làm tiều phu. Trần Hy Di trông thấy cười mà rằng:
- Tiên sinh tiều phu, 20 năm nữa tiên sinh là bậc nhị phẩm nhân thần, thiên hạ ai cũng biết tiếng.
Đúng 20 năm sau, Thần Phóng làm giám nghị đại phu rồi thăng chức Công bộ thượng thư.
Đời Hậu Hán, Vương Mãng có tướng lạ, trán cao dô, mắt đỏ con ngươi vàng, tiếng nói oang oang, quyền cao, mũi lớn, miệng rộng.
Công Tôn Đề bảo Vương Mãng:
- Đầu hổ, miệng hổ, tiếng như beo nếu không ăn nổi người tất bị người ăn.
Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán không được bao lâu thì bị giết.
Ông Thánh Thán, nhà phê bình văn học danh tiếng đời Thanh.
Giao du rộng, bạn bè nhiều, có những tay tướng mệnh học tài giỏi
thường ăn ngủ trong nhà Thánh Thán. Coi tướng cho Thánh Thán, người nào
cũng tỏ ra thương tiếc, mười người xem thì cả mười người đều phê tướng
cách Thánh Thán là sẽ bất đắc kỳ tử, lúc chết thây không toàn vẹn.
Kết cuộc, Thánh Thán bị kết tội chém ngang lưng.
Tào Tháo sai thích khách đi ám sát Lưu Bị. Thích khách vào yết kiến
Bị để bày kế diệt Tào. Bị rất hợp ý, nói chuyện thật tương đắc. Chợt
Khổng Minh vào. Thích khách mặt biến sắc. Khổng Minh nhìn người khách lạ
rồi ngồi yên lặng. Thích khách đi tiểu tiện. Lưu Bị bảo Khổng Minh:
- Đó là một kỳ sĩ, có thể giúp cho ông.
Khổng Minh thở dài bảo Lưu Bị:
- Người ấy sắc động thần huy, gian hình ngoại lậu tà tâm nội tàng. Tôi chắc hắn là thích khách của Tào Tháo sai phái tới đây.
Lưu Bị cho người đuổi theo bắt thì thích khách đã chạy trốn rồi.
Dương Quý Phi lúc nhỏ chạy chơi ngoài đồng ruộng. Có thầy tướng họ Trương trông thấy nói:
- Người đại phú quý sao lại ở đây?
Bạn hữu họ Trương hỏi:
- Con bé quý đến bậc tam phẩm không?
Trương đáp:
- Hơn thế nữa.
- Nhất phẩm?
- Hơn nữa.
- Thế chắc phải là Hoàng hậu?
- Cũng chưa đúng hẳn.
Dương Quý Phi là một trong bốn người đẹp nhất của Trung Quốc, từng làm rung chuyển cơ nghiệp nhà Đường.
THUỞ TRỜI ĐẤT NỔI CƠN GIÓ BỤI
Trời đất nổi cơn gió bụi là động cơ chính để xoay chuyển vận mệnh con người.
Một nhà trí thức rời Hoa Lục qua Hương Cảng sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc nắm chính quyền có làm bài thơ ngũ ngôn sau đây:
“Danh sĩ kim trùy thạch
Tướng quân học tú hoa
Phu nhân cánh hạ hải
Tiểu thư diệc đảo sa
Bộ trưởng cam ti siển
Tài thần nhẫn xuất gia
Chỉ nhân đào họa loạn
Luân lạc đáo thiên nha”.
Nghĩa là:
“Danh sĩ đi xay gạo giã thịt
Ông tướng cầm kim chỉ thêu gối thêu khăn lấy tiền
Các bà mệnh phụ xuống biển chở đò
Tiểu thư khuê các gánh nước, giặt thuê
Bộ trưởng làm anh bán vé xe điện
Phú ông lang thang đầu đường xó chợ
Tất cả chỉ vì chạy loạn
Nên mới lênh đênh góc biển chân trời”.
Thế sự là như vậy. Tất cả là biến dịch. Đời sống con người đưa đẩy
trong cái dịch đó. Động biến, cùng, thông, sinh, tự hoá, đúng thời, đắc
vị là căn bản cho xã hội nhân sinh.
Lý lẽ của tướng mệnh ở đấy mà ra.
Những hoàn cảnh: Bèo dạt hoa trôi, cúc tàn gặp mưa, cá ao thoát
lưới, hổ về rừng, yến tiệc hoa đăng v. v..., nhất nhất cũng từ đấy mà
thành.
Cơn gió bụi, tri loạn là gốc nguồn của khí số vận mệnh tạo nên vinh hoa, toả chiết, thất bại, hung tai, hỉ sự cho kiếp người.
QUAN HỆ TƯỚNG SỐ GIỮA TẬP THỂ VÀ CÁ NHÂN
Nói đến tướng lý và số lý, người ta thường gặp câu hỏi móc họng:
- Ối dào, tướng với số chỉ lắm chuyện. Thế cả cái tàu chìm ở ngoài
khơi thì tất cả người trên tàu cùng một số một tướng chắc. Quả bom
nguyên tử thả ở Hiroshima chết trong mười phút cả mấy trăm ngàn thì
tướng với số ở đâu?
Móc họng như vậy thật cũng khó trả lời. Nhưng nếu cũng đem một câu hỏi móc họng khác ném ngược trở lại rằng:
- Vậy ở Hiroshima chết cả trăm ngàn nhưng có một số người cùng
chung hoàn cảnh hệt như nhau mà thoát chết thì khoa học giải nghĩa ra
sao?
Câu trên cũng chẳng dễ gì trả lời được. Nếu câu hỏi trước lôi người
ta ra khỏi màng lưới của số mệnh tướng cách thì câu hỏi sau lại du
người ta vào. Và cuộc cãi vã cứ giằng co mãi không phương cách gì chấm
dứt.
Nhưng giữa khi đó thì bản thân số học và tướng pháp nảy sinh ra vấn
đề: “Tướng tập thể”. Về “tướng số đông” này có một lối giải nghĩa khác
nữa là “vận nước”.
Trong thời kỳ Trung Hoa kháng chiến chống Nhật bản, có 2 vị là Lâm
Canh Bạch nhà đoán số nổi danh và Đào Bán Mai nhà xem tướng kỳ tài vốn
bạn chơi rất thân với nhau, cho nên hai vị đã cùng nhau cộng tác để làm
những thực chứng để mà giải đáp vấn đề. Xem tướng đoán số tập thể để
đoán định thời cuộc.
Một hôm họ gặp nhau tại Bảo quán Tân Cương, Đào Bán Mai hỏi Lâm
Canh Bạch đã phát hiện được ra điều gì mới lạ sau khi xem số cho nhiều
người?
Họ Lâm nói:
- Về các yếu nhân trong chính phủ thì chưa thấy có gì khác lạ mới
mẻ. Chỉ riêng có số của Thị trưởng Trùng Khánh là Ngô Quốc Trinh thì năm
nay là năm đại bất như ý. Đồng thời xem cho đa số dân chúng Trùng Khánh
thấy trong một trăm lá số có đến cả bẩy chục lá số rất xấu năm nay.
Đào Bán Mai mới căn cứ vào lời nói của bạn, mấy ngày hôm sau liền,
ông tìm nơi công cộng lắm người đi lại mà sử dụng đến tài của mình.
Trường hợp này, xem tướng giải quyết vấn đề tương đối dễ dàng hơn xem
số. Bởi vì dù gặp người không quen, dù họ không mời vẫn đoán được như
thường. Lạ thay, khi vận dụng nhãn lực với tướng pháp ra nhìn thiên hạ,
Đào Bán Mai tiên sinh thấy khí sắc những người ở đây quá nửa là tướng
chết bất đắc kỳ tử mà thảm hoạ sắp đến rồi, chỉ trong vòng 3 tháng. Sợ
rằng đất Trùng Khánh này tai nạn đến nơi. Trong lúc chiến tranh, tai nạn
không khỏi 2 điều: bị luân hãm hoặc bị máy bay ném bom. Đất Trùng Khánh
tính trên chiến lược không thể nào bị luân hãm được, chỉ còn là vấn đề
máy bay ném bom.
Đào tiên sinh nghĩ rất hợp lý. Vì nếu Trùng Khánh bị giặc chiếm,
tất nhiên số mạng các yếu nhân chính phủ ít nhất dịch mã phải động,
nghĩa là phải rời đi, nhưng theo như Lâm Canh Bạch thì không.
Còn số mệnh của ông thị trưởng Ngô Quốc Trinh thì bất quá chỉ là số mạng một cá nhân không quan thiết đến đại cục.
Cái đáng kể là Lâm Canh Bạch xem thấy nhiều số xấu rồi đến Đào Bán
Mai trông thấy nhiều tướng xấu. Hai người bàn với nhau mà lo. Nhưng ai
dám nói cho mọi người hay chuyện lạ khó lòng tin được ấy.
Hai ông bàn nhau: Tất nhiên nếu có thảm họa thì Trùng Khánh chỉ có
thảm họa bị máy bay oanh kích. Nói đến máy bay oanh kích thì hơi khó xảy
ra thảm họa to tát bởi vì hệ thống hầm hố ở Trùng Khánh rất chắc chắn.
Vậy thì tướng số sai chăng? Không thể như thế được. Cá nhân còn có thể
sai, chứ tập thể làm sao sai? Vả lại “tử vong khí sắc” Đào Bán Mai tiên
sinh thấy càng ngày càng nặng thêm không giảm bớt chút nào.
Mối hoài nghi cứ dày vò mãi 2 nhà tướng số.
Không bao lâu sau, cách cuộc gặp gỡ của hai vị tướng số chừng 38
ngày thì thảm họa lịch sử Trùng Khánh xảy đến. Hàng vạn người chết chẳng
phải vì dịch tễ, chẳng vì bom đạn mà vì chết ngạt ở dưới hệ thống hầm
hố. Số người chỉ ngất xỉu đi thôi cũng bị vất lên xe đi chôn tập thể.
Tướng và số tập thể như vậy không phải là chuyện ngoa ngôn.
Đất nước chúng ta ngày nay nếu ai để ý ít nhiều tất sẽ thấy ngay
trẻ con thuộc thế hệ người Việt lớp sau này đều đẹp đẽ sáng sủa hơn lớp
trước mặc dầu chiến tranh miên man, mặc dầu rối loạn không ngừng. Tướng
tập thể của lũ trẻ Việt đó báo hiệu một tương lai tốt cho giang sơn Việt
Nam.
TƯỚNG TẬP THỂ ỨNG VÀO VIỆC THIÊN ĐÔ CỦA CHÍNH PHỦ KHÁNG CHIẾN
Ở Hồng Khẩu, trước kháng chiến 5 tháng, tướng gia Đào Bán Mai gặp
người bạn mời ăn cơm trưa. Ông bạn này biết tài của họ Đào nên trước
đông anh em, ông bạn yêu cầu tiên sinh xem tướng cho tất cả bọn.
Bữa tiệc có khoảng chừng bẩy tám chục người. Đào Bán Mai phát hiện tướng của họ đều chung một điểm giống nhau là sắc tướng có khí mờ ám và có dấu hiệu rời đổi chỗ ở.
Khí sắc mờ ám là có sự “bất như ý”, “tiểu phá tài”.
Khí sắc thiên di là chỉ trong nội một thời gian ngắn tất đổi rời nơi cư ngụ.
Tướng thì thế, nhưng sự thực thì khó lòng chứng minh quá. Ai nấy
đều có công ăn việc làm thì dại gì mà đi đâu. Ấy vậy mới kỳ. Nghe Đào
tiên sinh nói họ cười thầm. Nhưng họ cười chẳng bao lâu thì chiến tranh
bùng nổ. Nhật ào ạt đổ lên Hồng Khẩu, toàn thể dân Hồng Khẩu “khăn gói
gió đưa” lên đường tản cư.
Một nhà tướng số khác sau khi xem số và tướng cho các yếu nhân
trong chính phủ như Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ, Lâm Xâm v. v... đã
thi ra một điểm lạ. Trong cung thiên di của quá bán các yếu nhân đó đều
thấy dịch mã nên quyết đoán như sau: Chính phủ tất phải rời Nam Kinh và
đi về phía Tây. Quả nhiên chính phủ mấy tháng sau chuyển lên Vũ Hán rồi
đến Trùng Khánh.
TRI NHÂN THIÊN NHIỆM - BIẾT NGƯỜI ĐỂ DÙNG NGƯỜI
Học tướng pháp để xem ai sẽ chết non, chết yểu hay thọ bẩy tám
mươi, hoặc ai sẽ giàu có nứt đố đổ vách hay nghèo rớt mồng tơi. Nhưng
đấy mới chỉ là phần tìm hiểu vận mạng một người.
Nhưng tướng pháp còn đem lại cho chúng ta một điều hữu ích khác là
biết người để dùng người, biết người làm bạn, biết người để cùng mưu
toan việc lớn.
Những độc giả nào đã đọc Tam Quốc Chí chắc chưa quên cái tướng Ngụy
Diên chói xương phản chủ mà Khổng Minh Gia Cát biết trước để phòng
trong cẩm nang giao cho Mã Đại xử tội.
Trong vở kịch của nhà đại văn hào Anh Shakespeare, vở César, có đoạn: César nhìn thấy Cassius bèn bảo cận thần của ông rằng:
- Các ngươi hãy canh chừng tên Cassius kia. Vóc nó gầy guộc với đôi
mắt võ vàng của nhiều đêm không ngủ. Ta sợ những người như hắn. Hắn
đang mưu toan hại ta đó.
Từ cổ xưa, lịch sử nhiều lần chứng minh rằng: Tất cả thành công hay thất bại quá nửa thu vào hai chữ dùng người.
Hán Cao Tổ Lưu Bang sau khi thành công rồi, một hôm hội họp quần thần lại mà hỏi:
- Các ngươi có biết tại sao từ áo vải chân trắng mà lên được ngôi thiên tử chăng?
Quần thần nịnh hót, tán nhảm tán nhí rằng ngài giỏi, ngài gan dạ, ngài anh minh, ngài quân tử.
Để cho tâng bốc hồi lâu, Lưu Bang mới vuốt râu cười khe khẽ nói:
- Không phải, các người nói sai bét, sai bét.
Đám quần thần thấy những câu nịnh của mình trật lất nên người nào người nấy ngồi ngẩn mặt ra.
Bấy giờ Lưu Bang mới chậm rãi phán rằng:
- Ta tài quyết liệu quân cơ không bằng Trương Lương, tài tính toán
đôn đốc quân ngũ không bằng Tiêu Hà, tài chỉ huy chiến sĩ xông pha chiến
trường không bằng Hàn Tín. Thế mà ta ngồi ở trên cao nhất chính là nhờ
ta biết người và dùng người đúng chỗ vậy!
Ông Gia Cát Lượng khi còn nằm tại núi Ngọa Long đã viết ra thiên “Tri Nhân” (biết người) trong tập Tướng Uyên như sau:
- Tính người thật khó hiểu. Dung mạo bất nhất, hành động trăm ngàn
lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo, kẻ bề ngoài cung kính mà
trong lòng trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng lại nhát sợ (kiểu
các cụ đồ thường nói là già gi... non hột, dọa đánh người rồi không dám
đánh). Kẻ có vẻ thật tận lực mà rất bất trung.
Tuy nhiên, biết người cũng có bẩy cách:
a) Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết chí hướng.
b) Lấy lý luận dồn họ vào thế bí để biết biến thái.
c) Lấy mưu trí trị họ để trông thấy kiến thức.
d) Nói cho họ những nỗi khó khăn để xét đức dũng.
e) Cho họ uống rượu say để dò tâm tính.
f) Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng liêm chính.
g) Hẹn công việc với họ để đo chữ tín.
Như thế, thuật “Tri Nhân” của Khổng Minh xây dựng trên 2 điểm căn bản:
1) Hình tướng (phải học tướng pháp để khỏi lầm cái hình dáng bên ngoài).
2) Tâm tướng (cách phát hiện tâm lý người khác trong khoảng khắc).
Đấy tướng pháp quan trọng như thế đó. Dù đi buôn bán, hùn vốn làm
kỹ nghệ hay mọi công việc chỉ có hai người trở lên mà chỉ có chút phản
tướng vào đấy thôi là tất cả hỏng hết. Nữa là làm chính trị!
Xin đưa vài tỷ dụ:
a) Người ”bé gan” thì mục châu (con ngươi) nhỏ mà vàng. Toàn mắt
đen với vàng không rõ rệt nó lờ mờ. Mũi ngắn, thân hình dài hơn chân,
nói lao xao nhưng không thực. Mặt trắng bệch, tính tình tham, thích thủ
lợi (xin nhớ chỉ cần phạm vào một tướng trên đây cũng đủ).
b) Lông mày thưa, xương mặt dưới lông mày không gò lên mà lõm
xuống. Hai mắt đột lộ lại đỏ. Trông bất cứ việc gì hoặc ngước lên hoặc
gầm xuống không dám nhìn thẳng. Lưỡng quyền nằm ngang, quá cao ép bên
cái mũi bất tương xứng. Mũi vẹo, mũi không đầy đặn, mũi như móc câu.
Trên lưỡng quyền có những vết nhăn đi ngược, sách tướng gọi là văn loạn quyền phá là tướng của những tên phản trắc.
c) Tướng người hiếu sắc thì thần của 2 mắt lúc nào cũng lờ đờ như say rượu, gọi là tuý nhãn. Nếu sóng mắt lúc nào cũng rạt rào gọi là dâm nhãn. Mắt vui ưa nhìn nhưng chứa chất tính cách hỉ hoan tình ái gọi là đào hoa nhãn.
d) Tướng loại người gian điêu thì mắt không đau mà lúc nào cũng đỏ.
Hai mắt khuyết hãm. Nhưng nguy hiểm nhất là tướng mũi khoằm tựa mỏ diều
hâu, có điều là cái mũi ấy thường làm cho người khác hay tin nghe bởi
vì nó còn là tướng biểu lộ tài “khéo chiều lòng”.
TỤC NHÃN VÀ TƯỚNG NHÃN VỚI CÁI THÚ XEM TƯỚNG
Đây là một câu chuyện nghiên cứu về tướng phụ nữ. Trong cuộc sống
hàng ngày, ta thường nói chữ “đẹp”. Chữ đẹp để chỉ đồ vật, phong cảnh,
thái độ, thời tiết. Nhưng chữ đẹp hay dùng đến nhất là chữ đẹp chỉ định
người đàn bà. Khi nói vào tướng số, người ta không thể áp dụng nghĩa chữ
đẹp thường tình. Đẹp của con mắt tục khác và đẹp của con mắt tướng khác
xa nhau.
Trước khi bàn đến cái đẹp của tướng nhãn, ta hãy nói qua cái đẹp của tục nhãn.
Phân biệt vẻ đẹp mỹ nhân, người phương Đông chia làm hai loại:
a) Liễu yểu mềm nhẹ như thanh liễu. Uyển chuyển có thể bay bổng lên được nếu gặp gió.
b) Đầy đặn mơn mởn như hoa mẫu đơn đượm sương mai.
Thực ra chẳng riêng người phương Đông phân biệt như vậy. Ở phương
Tây cũng thế, đẹp “vamp” và đẹp mảnh khảnh như người Anh (beauté
anglaisse).
Các nhà nho ngày xưa đã thêu dệt bằng chữ nghĩa những cô nàng vóc liễu mình mai bằng những câu:
Ngọc thụ lâm phong (cây bằng ngọc đứng trước gió)
Quỳnh lâm ánh nguyệt (rừng hoa quỳnh một đêm trăng sáng)
Thu vân thổ hỏa nguyệt (mây thu nhả hoa trăng)
Xuân phong phất lý hoa (gió xuân làm lay động hoa lý)
Các ông nhà nho khác ưa vẻ đẫy đà, đầy đặn thì nhả văn ca tụng bằng những câu:
Hải đường hàm thần lộ (hoa Hải đường ngậm giọt sương)
Đào lý ánh chiêu hà (bông hoa đào buổi bình minh)
Nhất tiếu bác mị sinh (nụ cười nở trăm vẻ duyên)
Ta vẫn nói: “Thấy người đẹp mà không biết rằng đẹp tức thị là hạng không có mắt”.
Tuy nhiên, đẹp là một vấn đề không dễ dàng như ta tưởng. Ta hãy
nhìn vào lịch sử hội hoạ kể từ Léonard de Vinci cho đến Picasso, quan
niệm về đẹp đã biến đổi khá nhiều. Còn riêng cái đẹp đàn bà thì tư tưởng
càng cao, vẻ đẹp càng trở nên khó để tiến tới mức đẹp. Ấy là nói vào
lĩnh vực trừu tượng. Kéo lùi về thế tục thì ta nhìn thấy người đàn bà
đẹp, đấy mới chỉ là bước đầu. Bước thứ hai ta ngắm và lẽ dĩ nhiên, mức
đòi hỏi của ta lên cao hơn, lúc bấy giờ ta nghĩ thêm: à đẹp thì đẹp
thật, nhưng vô duyên, đẹp mà vô duyên là cái đẹp đần độn, lạnh nhạt.
Bước thứ ba phê bình của ta sẽ thuộc về khứu giác, phàm đẹp thì phải
thơm, thứ thơm tự nhiên thân thể tiết ra. Trong trường hợp nhờ vào thơm
chế tạo thì kém rồi, chẳng khác gì nước dùng phở mang vị ngọt mì chính.
Cứ như vậy đến bước thứ tư, thứ năm v. v...
Còn như vẻ đẹp đối với con mắt coi tướng thì đã đi vào chỗ huyền chí diệu, đôi lúc nó vượt hẳn, trái hẳn con mắt tục.
Nhìn xem trong chốn cao lâu, tửu quán, cô đầu, nhà nhẩy có biết bao
nhiêu khuôn mặt đẹp. Nhìn xem phu nhân các ông to ông lớn có mấy bà mà
không xấu như ma chôn ma vùi. Nhìn xem các ông quyền thế vợ xấu, đi lấy
vợ nhỏ và gần như là định lệ, vợ nhỏ thường đẹp hơn vợ lớn. Nói xong quý
bạn đặt một câu hỏi: Tại sao đẹp như sao băng lại đi làm đĩ lấy lẽ? Xấu
như ma mút lại được ngôi vị quý phu nhân?
Và câu trả lời là như thế này:
- Đẹp của con mắt tục khác hẳn đẹp của con mắt tướng. Dù là “cây
ngọc đứng chỗ gió” hay “xuân phong phất lý hoa” hay “hoa hải đường ngậm
giọt sương” mà không đi kèm với cái đẹp về tướng nhãn thì cũng phải đứng
đường làm đĩ như thường.
Dù có xấu như Chung Vô Diệm thì Chung Vô Diệm vẫn làm chánh cung của Vua Tề. Ăn nhau ở cái tướng là thế đó.
Sách tướng dạy rằng: “Mỹ nhân thường tác kỹ, mỹ trung hữu chí sú”
(nghĩa là người đẹp thường đi làm đĩ vì trong vẻ đẹp có cái gì cực xấu).
Một nhà tướng số danh tiếng tại Trung Hoa kể lại chuyện dưới đây:
- Mùa xuân năm ấy tôi đi dự bữa tiệc tại Cẩm Hoa Viên thết nhân
ngày sinh nhật của Ngô bội Phu, một chính khách quân nhân quyền thế
khuynh quốc ở Bắc Kinh. Họ mời tôi đến cốt để xem tướng. Bởi vì họ muốn
thử mặc dầu họ rất tin tướng số, vì nếu không có tướng số thì làm sao
dốt ngu như họ mà lại làm to vậy. Nhưng họ vẫn hồ nghi cho nên thường
hay thử tài thầy tướng số, nếu thầy tướng số quả là chân tài thì đoán
đúng, họ sẽ vui sướng yên chí.
Khách đến dự thật đông nhất là phái nữ. Đối với tôi dịp này rất may, tôi có cơ hội tốt để thử lại tài học về tướng pháp.
Tay cầm cốc rượu đi tha thẩn trong hoa viên, tôi mỉm cười trông
những con “thiêu thân” đang vui vẻ hạnh phúc hết sức vô tư qua mặt giả
tạo mà trong đó tôi đã nắm chắc kẻ nào sắp mất cơ nghiệp, kẻ nào lừa
chồng dối vợ, kẻ nào ăn cắp làm giàu, kẻ nào tàn ác giết người. Tướng
pháp thật kỳ, nó có phép thần để đưa người nào nắm được nguyên lý của nó
đi ra ngoài đường tục.
Bỗng người bạn là Đàm tiên sinh đến báo:
- Này bác, tại căn phòng phía Tây có một người đàn bà, chừng trung
tuần hơi đẫy đà, da ngăm đen, bác thử coi xem tướng bà ta thế nào?
Ban đầu tôi nghĩ người này chắc phải đẹp lắm nhưng tới nơi mới hay
đây chỉ là một nhan sắc cực bình thường. Lúc ấy tôi cùng đi với mấy
người bạn rành tướng số nữa. Chúng tôi ngắm nghía chừng mười phút thì
ông bạn họ Kha của tôi nói:
- Tướng cách tốt lắm, nhất phẩm phu nhân.
Ông bạn họ Viên cười mà rằng:
- Đi vào đây để đoán tướng nhất phẩm phu nhân thì dễ ợt còn gì.
Ông họ Kha hơi cáu cãi lại:
- Đành thế nhưng bác nên nhớ rằng cách nhất phẩm cũng chia làm
nhiều hạng, với người này tôi đoán vào bậc “thượng thượng”, nhất phẩm
phu nhân của người đàn bà này không nên đem so bì với những hạng nhất
phẩm khác.
Tôi đồng ý với ông bạn họ Kha vì người đàn bà xấu xí về nhan sắc
quả là có những tướng cực tốt như: mũi nở, lưỡng quyền rộng và đầy, hàm
lớn mà nặng, dáng đi ẩn nhẹ, tiếng nói êm ấm.
Tôi chưa kịp phát biểu thì ông bạn họ Đàm đã nói:
- Kha tiên sinh đoán hay lắm. Người đàn bà ấy chính là Ngô Bội Phu phu nhân đó.
Sau đấy chúng tôi bàn với nhau, chia ra mỗi ngả đi săn “tướng” và
cùng đưa ra ý kiến là: không cần xem kỹ tướng (tướng kỹ nữ?) và quý
tướng ở chốn này vì đương nhiên ở đây loại tướng ấy chẳng thiếu gì.
Phân công xong mỗi người đi mỗi ngả.
Phần tôi, ngay trong bốn mươi lăm phút đầu, tôi đã khám phá ra sáu
người đàn bà, lẽ ra phải luân lạc làm kỹ nữ nhưng hiện thời thì đang ở
vận nhất thời tôn quý. Tìm hiểu xa hơn nữa, tôi thấy ở đây đa số là kỹ
nữ xuất thân mà rất ít tướng cách thực thụ là phu nhân, chỉ hao hao
giống phu nhân mà thôi. Tôi còn thấy năm người nữa, tuy hiện tại là phu
nhân nhưng không lâu, chắc lại phải trở về làm điếm, con hát. Dĩ nhiên ở
đây cũng có cả những tướng cách dâm loạn, ngoại tình giết chồng, sắp
tái giá và chồng sắp chết v. v... Chỉ một buổi dạ hội này thôi mà chúng
tôi thu thập biết bao nhiêu kinh nghiệm.
Xem xong chúng tôi về họp với nhau và phân ra làm tám loại:
1) Quý cách suốt từ tấm bé đến lớn.
2) Trước làm kỹ nữ sau làm phu nhân nhất thời.
3) Vĩnh viễn làm phu nhân.
4) Đã nhiều đời chồng.
5) Sắp tái giá.
6) Dâm loạn.
7) Có con.
8) Không con.
Theo con số thống kê thì trong hơn bốn chục người, có tới 31 người
là đĩ điếm xuất thân. Chúng tôi ghi lại và giao Đàm tiên sinh phối kiểm
với bà họ Trương, một người giao thiệp rộng biết nhiều, hơn nữa, bà ta
cũng chính là một kỹ nữ xuất thân, bà họ Trương rất tin tướng số, tính
thật thà.
Quả nhiên kế hoạch của chúng tôi rất hoàn hảo. Bà họ Trương cho chúng tôi những tin tức đúng phong phóc.
Nhờ buổi dạ hội này, chúng tôi công nhận tướng pháp mỹ nhân thường tác kỷ của cổ nhân là rất đúng.
Chúng tôi chưa kịp đưa ra lập luận: mỹ nhân có bộ mặt đẹp, nhưng bộ
mặt đẹp không nhất định là phúc tướng. Nhưng cũng không là ác tướng hay
bẩn tướng. Vậy tại sao lại phải luân lạc vào nghề đĩ điếm ca kỹ? Câu
hỏi này đưa chúng ta đến định lý mỹ trung hứa chí sú. Trong vẻ đẹp ẩn
chứa một cái gì cực xấu. Như vậy gọi là phá tướng.
Phá tướng là những gì?
Tỉ dụ: Mặt người con gái ấy đẹp nhưng tiếng nói lại ồm oàm như cái lệnh vỡ.
- Thế thái, dung nhan người đàn bà ấy thật là điệu mà đi như người đàn ông.
- Mặt trắng nhưng da thịt toàn thân lại gợn đen như có ghét
- Tay èo ọt như không có xương.
- Thịt mềm như bông.
- Tóc cứng như rễ tre.
- Da nhám như có sạn bụi.
Hết thảy đều là phá tướng.
Tướng làm đĩ cụ thể nhất là nhìn vào vầng trán.
Trán hẹp, trán thấp, trán nhọn, trán lõm, trán rô, trán lệch, thiên
sương hãm, ấn đường nhỏ. Phàm con gái từ 15 đến 22 tuổi đi vào vận của
cái trán, nếu cái tướng trán mà xấu tất chẳng tránh khỏi luân lạc vào
nghề kỹ nữ.
Thoát khỏi vận trán, đi vào vận khác, tốt thì sẽ hoàn lương, lấy
chồng làm ăn tử tế. Ông trời quái ác thật, đánh dấu cuộc đời ngay trên
trán con người, thế mà hồ dễ đã mấy ai nhìn thấy.
Khi nhìn ra cảm thấy một cái thú vô song như người được mang chiếu yêu kính mà xem ma cười quỷ khóc trước mặt.
QUÝ, TIỆN, CỐT CÁCH, KHÍ CHẤT
Mười năm đèn sách, mười năm nuôi khí chất là phép tu dưỡng của người xưa.
Cốt cách và khí chất rất quan trọng cho đời người. Anh hùng hào
kiệt, chân nhân quân tử là những người có khí chất tốt, cốt cách. Thành
công, có địa vị là những người có hình tướng hiển đạt.
Sang hèn (quý - tiện) không phải chỉ căn cứ vào mũ cao áo dài, quan to bổng hậu mà còn phải căn cứ vào khí chất con người.
Cuối đời Minh, tổng đốc hai tỉnh Tô Châu và Liêu Đông là Hồng Thừa
Đào, có thầy tướng xem đã phê rõ ràng vào tướng cách của Đào ngày ấy
tháng ấy sẽ chết. Nhưng đến đúng ngày ấy, tháng ấy Hồng Thừa Đào lại
không chết khiến vị thầy tướng hết sức ngạc nhiên không hiểu tại sao?
Đời sau mới khám phá ra lý lẽ. Đào vốn là con người có danh có vị
thời bấy giờ. Quân nhà Thanh sang xâm lược Trung Quốc bắt được Hồng Thừa
Đào chính vào ngày thầy tướng phê tận số. Bởi chưng, Hồng Thừa Đào tham
sống hàng giặc, đi làm quan cho giặc, làm Hán gian nên không bị giặc
giết. Đào từ bỏ khí chất quý đáng lẽ ra phải có của một vị nhất phẩm
nhân thần để chấp nhận tai tiếng ti tiện thành thử phát sinh biến tướng.
- Nếu căn cứ vào quyền thế, danh vọng Hồng Thừa Đào lúc bấy giờ
Minh triều còn qua đến Thanh triều mà bảo như vậy là quý thì lầm. Chữ
quý chứa chất trong nó cái nghĩa đẹp tốt, đức hạnh. Trường hợp Hồng Thừa
Đào hàng giặc, làm quan cho giặc phải gọi là Tiện chứ không thể nói
rằng Quý.
Ca dao có câu:
“Sáo đói thì sáo ăn da
Phượng hoàng lúc đói cứt gà cũng ăn”.
Phượng hoàng loại Hồng Thừa Đào là thế.
Có kẻ hiển đạt mà ti tiện hèn hạ thì ngược lại cũng có những người
đói khổ mà cao quý. Tỉ như Vũ Huấn đời Thanh nguyên là lão ăn mày rồi
đột nhiên ông ta tụ tập tranh đấu thiết lập tổ chức Nghĩa học, dạy các
em nghèo biết chữ, tạo thành phong trào đi học rộng lớn.
Tuy nhiên, riêng thân phận ông ta vẫn là một lão ăn mày.
Hình tướng tốt mà không có khí chất tốt vẫn kể là bất túc.
Sách tướng viết: “Cốt vi quân nhục vi thần, xương là vua thịt là
bầy tôi”. Xương với khí chất đi liền với nhau cho nên ta có thể gọi là
khí chất hay cốt khí hoặc cốt chất đều được cả.
Ngụy Diên đời Tam Quốc có cái xương chồi sau gáy, Khổng Minh coi
cái xương đó là tướng tài giỏi nhưng phản trắc. Cốt chất thế nào, khí
chất như thế. Cốt chất xấu, khí chất tất hẹp hòi, gian tà, ti tiện. Cốt
chất tốt độ lượng, bao dung, sang trọng. Chỉ có tướng da, tướng thịt
ngoại hình hiển đạt mà không có cốt tướng hiển đạt thì sự hiển đạt không
lâu bền. Chỉ có tướng da tướng thịt ngoại hình quyền cao chức trọng mà
cốt chất hèn hạ thì quyền cao chức trọng thật chưa vẹn toàn. Trái lại,
tướng da tướng thịt ngoại hình cô hàn bần bạc mà cốt chất cao quý thì
thân phận tuy thấp kém nhưng danh đức độ ít người theo kịp.
Cho nên phép xem tướng trước phải xem cốt cách.
Chương tổng luận sách “Thần Tướng Toàn Biên” có chép lời của Thành Hoà Tử giảng như sau:
- Tướng mạo thanh cổ, cử động cẩn thận, lễ độ, đàng hoàng, tính
tình trầm tĩnh, thanh thản, ăn nói đâu ra đấy, dõng dạc, tinh tế. Đấy là
cốt chất của chính nhân quân tử.
- Hình mạo cổ quái, cử chỉ âm độc, ăn nói đi đứng tà dâm, thường có sát phạt chỉ tâm. Đấy là cốt chất của loại người bất thiện.
- Hình mạo tú lệ, cử động phong nhã, thông minh sáng suốt, tính
tình hòa nhã, ưa học hỏi tu luyện. Đấy là cốt chất của thần tiên.
Những lời trên đây, Thành Hòa Tử muốn cho người đọc thấy hình dung
của cốt chất. Đọc kỹ và suy ngẫm sẽ có thể nhận và thấu đáo được.
Để cho rõ hơn xin xem lại lịch sử nước nhà thời hai vị vua Thành
Thái và Duy Tân. Cả hai ông chấp nhận từ bỏ ngôi báu chịu thân phận kẻ
lưu đầy chứ không làm vua bù nhìn cho bọn Pháp thực dân. Đấy là cốt chất
bậc minh quân. Đem so sánh với vua Lê Chiêu Thống sang khóc lóc với
Thanh triều rước voi về dầy mồ. Đấy là cốt chất của hôn quân.
Địa vị có thể ngang nhau mà cốt chất khác nhau thì quý tiện cũng khác hẳn.
Địa vị cao thấp, hơn kém nhau nhưng cốt chất khác nhau thì quý tiện
phải đặt vào sự nghiệp tiếng tăm,, chứ không phải đặt ở mũ cao áo dài.
Vấn đề cốt chất hay khí chất xong rồi.
Bây giờ nói về hình tướng của xương cốt.
Cốt vi quân, nhục vi thần.
Xương là chủ thể, thịt da là khách thể.
Xương thịt cần phải tương xứng. Thịt nhiều xương nhỏ không được.
Thịt ít xương thô không được. Tối kỵ người lúc nào cũng co ro như rét,
sách tướng gọi là cốt hàn. Tướng cốt hàn thì nghèo, hèn chết non.
Về tướng xương, sách Khâu Ngọc Quảng viết:
- “Đốt xương ví như kim thạch, cần vút cao lên chớ ngang ngạnh ra,
tròn trịa đừng thô. Người mập nên béo lẳn không lộ thịt, người gầy nên
vững chắc không khẳng kheo lộ xương. Xương thịt tương xứng khí sắc tương
hòa là tốt. Cốt hàn xương co quắp phi yểu tắc bần”.
Sách “Thông Tiên Ngữ” viết:
- “Quyền cốt (xương gò má) cao, nở rộng với ngọc trẩm (xương sau ót
giữa gáy và đỉnh đầu) u lên là làm quan to trong triều đình”.
Ông Thành Hòa tử nói:
- “Quyền cốt cao nhưng thô, mặt mày nở nhưng thịt mỏng hoạn lộ lao
đao. Da dầy xương nặng, khí tục là nông phu. Xương quá lớn là thợ
thuyền”.
Sách “Cửu Cốt Ca” viết:
“Phong long quang nhuận khí bột bột
Tiên lập triều ban chấp ngọc hốt”.
Phong long quang nhuận nghĩa là xương vững chắc, đầy đủ, cân đối,
sáng sủa trông đẹp như một tác phẩm điêu khắc. Khí bột bột nghĩa là còn
thấy nó có lực chưa hết, chưa tàn, trông khỏe như cành cây, thân cây
được chăm non vun bón.
Cũng sách “Cửu Cốt Ca” có những câu:
- Có thịt không xương thì đi hầu.
- Có xương không thịt không ngôi vị.
- Quyền cốt chạy dài đến thái dương được dịp là làm loạn.
- Sống mũi cao thẳng lên trán quan cư thượng phẩm.
- Sau gáy xương nổi như cái trứng gà (ngọc trẩm) thông minh, minh mẫn.
- Quý cốt thiếu niên thị đế đình,
Vô quý cốt giả chung bạch đinh.
(Có xương quý thành công sớm, không có thì suốt đời làm bạch đinh).
Cốt tướng lấy đầu làm chủ cho nên xem tướng chỉ cần xem xương sọ. Xương đầu đã hỏng thì các xương khác không đáng kể nữa.
Về sau, những giang hồ thuật sĩ lập ra một lối xem tướng sờ xương
dành cho những người mù. Để thêm phần quan trọng, họ nắn cả từng xương
ngón tay ngón chân. Thật ra chỉ cần nắn xương sọ là đủ.
Giết tướng giặc, đám giặc phải tan. Đầu cũng như ông tướng giặc của
thân thể. Nhìn một người nếu thấy người đó đầu quả muỗm, nhỏ mà thiếu
góc cạnh, chẳng cần coi thêm, ta có thể hạ ngay một câu: Tướng chung
thân bần khổ.
BÀN VỀ THẦN KHÍ - KHÍ SẮC
Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa, người ta thấy câu chuyện này:
“Tào Sảng nghe lời Hà Yến không dùng Tư Mã Ý. Từ khi Tư Mã Ý thác bệnh thì Tào Sảng và Hà Yến chủ quan không lo gì nữa.
Sảng mỗi ngày cùng bọn Hà Yến uống rượu, dùng uy quyền hống hách để
đi chim gái. Những đồ quý báu trong cung, những thóc gạo của dân đều
cướp bóc làm của riêng.
Thấy địa vị chẳng tài cán gì mà có nên Hà Yến rất tin tướng số. Hà
Yến biết tiếng Quản Lộ ở Bình Nguyên tinh nghề thuật số cho mời đến bàn
nghĩa kinh dịch. Lúc bấy giờ có Đặng Dương cùng ngồi đấy nhân mới hỏi
Quân Lộ rằng:
- Ông thử bói cho tôi một quẻ xem có làm tới tam công được không?
Tôi lại mộng thấy vài mươi con ruồi xanh đậu trên mũi, đó là điềm gì?
Lộ nói:
- Ngày xưa Nguyên Khải giúp vua Thuấn, Chu Công giúp nhà Chu, cùng
có đức tốt mà được hưởng phúc, nay quân hầu ngôi cao quyền trọng nhưng
người mến đức thì ít mà kẻ sợ oai thì nhiều, đó không phải là lối cầu
phúc. Vả lại mũi là cái núi, núi cao mà không đổ, khá sợ lắm thay! Xin
quân hầu bớt chỗ nhiều, thêm chỗ ít, điều gì phi lẽ chớ làm. Như thế
ngôi tam công mới đến tay mà đàn nhặng xanh mới xua đi được.
Đặng Dương giận, gắt rằng:
- Lời nói láo, ra cái quái gì.
Quản Lộ cũng bực mình đứng dậy đi ra. Đặng Dương bảo với Hà Yến: “Thằng ấy thật là đồ cuồng sĩ”.
Lộ về nhà thuật cho cậu nghe. Cậu giật mình nói:
- Hà, Đặng là hai người đang quyền thế hống hách, sao mày dám nói trêu chọc đến họ?
Lộ nói:
- Tôi cùng với người chết nói chuyện còn ngại gì nữa?
Cậu hỏi tại sao thì Lộ nói:
- Đặng Dương gân không bó được xương, mạch không giữ được thịt,
ngồi đứng ngả nghiêng, hình như không có chân tay đó gọi là tướng quỷ
tao. Hà Yến không tươi được sắc mặt, tinh thần bất định, dáng tựa cây
khô, đó là tướng quỷ u. Hai người nay mai tất có vạ diệt, mình can gì mà
sợ.
Quả nhiên khi Tư Mã Ý vùng dậy, bắt chém cả Hà lẫn Đặng. Quản Lộ
nói về Hà Yến tinh thần bất định, nói về Đặng Dương ngồi đứng ngả
nghiêng là xem về khí sắc, thần khí.
Thần khí, khí sắc, khí vận là những điều căn bản của khoa Tướng Mệnh.
Bộ vị xương cốt muốn tốt đẹp đến đâu mà thiếu thần khí, thiếu khí sắc cũng là bỏ.
Ngược lại, dù bộ vị, cốt hình tuy xấu mà thần khí hào sảng linh lợi thì lại dễ lập những kỳ công.
Thế nào là thần khí?
“Thiên thập quan sách thần tướng toàn biên” viết:
- Uy nghi như hổ hạ sơn, trăm giống thú đều kinh như chim ưng vọt bay lên khiến cáo, thỏ đều sợ. Không cần giận mà vẫn oai.
Như vậy là thần khí. Chẳng phải vì hình hài của hổ hay hình hài của
chim ưng mà muông thú kinh sợ mà vì khí thế oai thần do hổ, ưng vẫn có
trong rừng núi. Bây giờ nếu con hổ ốm khặc khừ nằm đấy, con chim ưng gẫy
cánh treo trên cành cây thì muông thú nào sợ.
Đọc truyện “Đông Chu Liệt Quốc” hồi Kinh Kha mưu sát Tần Thuỷ
Hoàng. Cùng đi với Kinh Kha là Tần Vũ Dương tay không đấm chết trâu.
Kinh Kha không khoẻ bằng. Khi đến trước mặt Tần Thuỷ Hoàng, Kinh Kha
tiến lên bình tĩnh, còn Tần Vũ Dương mặt tái đi, chân tay run lập cập.
Tại sao vậy?
Tại Tần Vũ Dương chỉ có lực dũng mà không có thần dũng như Kinh Kha. Thần ở đâu mà có?
“Khí tự du hề, thần tự đăng”
(Khí là dầu, thần là ngọn đèn).
“Du thanh nhiên nhi hậu đăng phương minh”
(Dầu sạch trong nên ngọn đèn mới sáng).
Như vậy thần do khí mà ra.
Khí sắc là gì?
“Nhập môn hưu vấn vinh khô sự
Đản kiến hình dung tiện đắc tri”.
Nghĩa là: Bước vào nhà chưa cần phải hỏi chủ nhân làm ăn khá hay không, chỉ nhìn hình dung là đủ biết.
Theo Tướng Mệnh học thì hình dung tức là nhìn hình thái sắc mặt hay nói khác đi là quan sát khí sắc.
Sắc mặt là biểu hiện của khí chất ở bên trong. Khí chất tốt sắc đẹp mịn màng óng ả (quang nhuận).
Dưới đây là một câu chuyện về tướng khí sắc:
Khi quân Nhật chiếm lĩnh Thượng Hải, Nam Kinh, Nhật giao cho Đường
Thiệu Nghi lập chính phủ bù nhìn. Những nhà chính trị chuyên nghiệp làm
tay sai xôn xao bàn tán.
Nhà xem tướng danh tiếng Đào Bán Mai có hai người bạn họ Cố và họ
Sái. Cả hai đều quen biết Đường Thiệu Nghi nên Nghi mời vào nội các.
Bình nhật hai người không tin tướng số, lần này muốn thử tài Đào tiên
sinh nên đến nhờ xem tướng. Họ dấu nhẹm câu truyện mời mọc của Đường
Thiệu Nghi và chỉ hỏi Đào Bán Mai tiên sinh đoán về “quan vận” ra sao và
có phải đi đâu xa không?
Đào Bán Mai quan sát hai người hồi lâu rồi nói:
- Quan vận sắp tới nhưng phải ba tháng nữa mới thực hiện. Còn như đi đâu xa thì không vì không thấy dịch mã động.
Bấy giờ chính phủ dân quốc Trung Hoa tuy đã thiên đô vào sâu nội
địa nhưng vẫn lưu lại ở Thượng Hải một bộ phận cứu tế và địa hạt công
tác. Đào Bán Mai cho rằng chính phủ dân quốc sẽ giao công tác cho hai
người chăng? Nhưng theo tiên sinh biết thì cả họ Cố lẫn họ Sái đâu có gì
quan hệ với tập đoàn chính trị dân quốc. Nghĩ vậy nên Đào Bán Mai mới
nói thẳng hai người có ý định tham gia chính phủ bù nhìn Đường Thiệu
Nghi không?
Trước câu hỏi đột ngột, cực chẳng đã, Sái và Cố đều thú nhận về ý định với Đường Thiệu Nghi rồi nói:
- Cứ theo tướng bác thì ba tháng nữa mới thực hiện quan vận trong
khi chính phủ Đường Thiệu Nghi chừng hai mươi ngày nữa thành lập xong.
Bác giải thích làm sao?
- Tôi chỉ biết tướng hiện ra thế nào tôi nói thế. Tôi đoán chắc
trong vòng hai tháng nữa, hai bác nhất định không thể “xuất chính” được.
Giải thích ra sao thì tôi cũng chỉ giải thích bằng tướng pháp hay mạng
vận thôi. Biết đâu Đường Thiệu Nghi lại không vì lý do nào đó mà không
tổ chức xong chính phủ. Tôi không làm chính trị cũng chưa được xem tướng
cho Đường Thiệu Nghi nên tôi chỉ dám đưa ra hoài nghi ấy thôi.
Sái và Cố nghe Đào Bán Mai nói liền bàn với nhau mời Đào Bán Mai đến xem tướng cho Đường Thiệu Nghi.
Họ gặp nhau tại Tân Á đại tửu điếm. Đào Bán Mai gặp Đường Thiệu
Nghi chừng hơn mười phút đã vội cáo từ về ngay. Phần Đường Thiệu Nghi
bận việc nên cũng đi luôn. Thế là bữa tiệc bất thành. Sái và Cố chạy
theo ông bạn Đào Bán Mai gặng hỏi:
- Tại sao bác vội vàng thế? Sao chưa nói chi với Đường huynh đã bỏ đi ngay?
Đào Bán Mai trả lời:
- Không thể nói ngay ở đây được. Chúng ta về nhà hẵng hay.
Họ Cố và Sái nghe họ Đào nói cũng lấy làm kỳ quái, chắc hẳn Đào Bán Mai có tâm sự chi lạ lùng lắm.
Cả ba thuê xe về nhà.
Chưa bước lên thuyền, hai người đã tới tấp hỏi Đào Bán Mai:
- Thế nào? Bác phát hiện ra điều gì trên vóc tướng Đường Thiệu Nghi?
- Nguy hiểm vạn trạng. Các bác đừng đến gặp hắn ta nữa. Chỉ trong vòng năm ba ngày trở lại thôi.
- ? ? ?
- Thần sắc hắn ta lúc này như người đã chết một nửa rồi. Hắn ta sẽ
chết bất đắc kỳ tử không biết lúc nào. Các bác hãy nghe tôi. Đừng đi đâu
nữa. Chỉ trong vòng năm ngày.
- Bác nói chi mà như đinh đóng cột vậy? Dù tướng số thì cũng phải
một thời gian nó mới hiện ra được chứ? Hơn nữa, Đường Thiệu Nghi đi đâu
đó có bộ hạ hộ tống đàng hoàng, làm sao xảy ra chuyện bất đắc kỳ tử? Trừ
phi là ông ta ngộ gió độc?
Đào Bán Mai thấy hai người vẫn hồ nghi, cũng chẳng nói thêm, ông lặng lẽ xuống bảo gia nhân làm cơm thết bạn.
Gần buổi chiều chừng năm giờ, bỗng ngoài phố huyên náo hẳn lên,
người nhà về cho hay hiến binh Nhật đang bủa vây Tân Á Tửu điếm, cùng
với cái tin động trời Đường Thiệu Nghi bị đặc công của Trùng Khánh ám
sát chết. Đường thiệu Nghi đang ngồi uống trà ở Tân Á tửu điếm cùng với
mấy viên sỹ quan Nhật Bản thì một người ăn mặc rất sang trọng bước vào
tới. Không ai lưu ý chi hết. Người kia đến bàn Đường Thiệu Nghi nét mặt
tươi cười bình tĩnh. Nhưng vụt một cái, anh ta rút trong mình ra chiếc
búa lưỡi sáng quắc và nhanh như cắt chém mạnh vào sọ Đường Thiệu Nghi.
Nghi ngã vật xuống đất, liền đấy mấy trái lựu đạn khói nổ tung, khách
hàng nhốn nháo. Cổ Đổng, đặc viên công tác của chính phủ Trùng Khánh,
người vừa xử tử Hán gian Đường Thiệu Nghi trốn thoát.
Sớm hôm sau, các báo đăng tin lớn: Đường Thiệu Nghi đã từ trần.
Thần do khí sinh ra. Sắc cũng do khí sinh ra. Vậy khí là gì?
Câu hỏi hắc búa nhất vì khó giảng vô cùng. Vì từ y học, triết học,
văn học cũng đều có danh từ khí. Tỉ dụ nói: văn người ấy chải chuốt
nhưng vô khí: khí tán rồi người ấy nay mai là chết, trông người ấy không
có sinh khí: cái khí hạo của nhiên của người quân tử...
Đọc nhiều nghe nói nhiều, người ta có thể hiểu bằng cách “ý hội”
chứ không hiểu vì nghe giảng nghĩa. Bởi thế, mỗi lần Tây Phương tìm hiểu
Á Đông, cứ hễ đến danh từ khí là chịu chết không làm sao dịch cho đúng,
không làm sao giảng cho hiểu.
Triết sử gia Tiền Mục giảng “khí” như sau:
Khí có hai hàm nghĩa:
a) Cực vi (nhỏ lắm).
b) Luôn luôn động.
Vạn vật trong vũ trụ đều do chất tố cực vi chuyển động mà thành
Nếu giảng như thế để áp dụng cho tướng mệnh học thì nó có vẻ lạc
đề. Cho nên, cách tốt nhất để hiểu thần khí, khí sắc và khí là tìm hiểu
bằng cách hội ý. Cũng như không thể giảng bức tranh đẹp như thế nào. Khi
ý thức mỹ học cao lên sẽ hội ý được cái đẹp. Một cái cây ta trông thấy
cành lá tốt tươi mà kỳ thực rễ nó đã thối nát thì ít bữa lá rụng cành
khô. Một cây khác ta trông thấy lá úa, cành trơ trụi, kỳ thực rễ nó rất
khỏe thì ít bữa cành lá sẽ xanh tươi. Khí ví như cái rễ vậy.
Trần Đồ Nam nói:
- Có da thịt mà vô khí khác nào cây gỗ bị mối ăn bên trong đã mục nát, gió mạnh là gẫy đổ.
Có thần khí mà vô thần nhục (da thịt, hình tướng) ví như cây có rễ,
chưa phát ra cành lá, đợi mùa xuân đến, tất đâm cành nảy nụ.
Ông Khổng Minh hình tựa cây tùng khô nhưng thần khí sáng sủa linh lợi, một sớm một chiều danh mãn thiên hạ.
Ý hội phải từ từ, cho nghĩa thấm dần. Bạn đọc sẽ trở lại với khí sắc, thần khí qua những chương khác.
DÁNG DẤP VÀ PHONG THÁI
Sách “Ngọc Quản Chiếu Thần” có câu:
“Hành nhược phù vân, toạ như đỉnh thạch
Đoạn hậu cẩn ngôn, tính tình khoan dật”.
Nghĩa là: Đi nhẹ như mây bay, ngồi chắc như tảng đá. Nghiêm trang, ăn nói cẩn thận, tính tình khoan dật.
Có dáng dấp phong thái như trên thì sẽ: Quan sùng vị hiển, tử tôn vinh (Quan to chức trọng, con cháu đề huề).
Trái lại, nếu đi mà đầu lắc lư, ngồi cúi gằm mặt thì bần tiện chung thân.
Dáng dấp phong thái quan trọng như thế đấy.
Toạ như đỉnh thạch, ngồi chắc như tảng đá là ngồi không nhấp nhổm,
chốc chốc lại đứng dậy ngả bên nọ, nghiêng bên kia, giơ tay giơ chân
rung đùi, rung vế chứng tỏ thần khí đủ nên không mỏi mệt.
Tinh thần càng sung túc, sự nghiệp càng hay, người Trung Hoa nói một phân tinh thần, một phân sự nghiệp.
Không cứ to lớn, hay nhỏ bé, hễ ngồi không ấm chỗ được lâu, sự nghiệp khó bền bỉ.
Tinh thần đã suy nhược tất nhiên lười, không quyết đoán, ỷ lại làm sao khá được?
Làm nên sự nghiệp là những người có tinh lực dồi dào, ý chí kiên cường, khí phách khoát đạt, tinh minh lỗi lạc.
Thiếu thần khí dù có mệnh vận tốt chẳng qua là nhất thời phong vận,
càng cao lắm càng làm trò cho thiên hạ cười như Trương Tôn Xương, ông
tướng thịt chó dưới thời Bắc Dương.
Thần khí là cái tốt tiềm phục bên trong, nhất đán gặp cơ hội là phát huy kiến lập sự nghiệp lẫy lừng.
Tướng mệnh học đào sâu hơn nữa về dáng dấp phong thái qua tướng ăn
ngủ. Những việc thường ngày trong sinh hoạt có thể báo hiệu cát hung hoạ
phúc.
Trương Phi lúc ngủ mở mắt nghiến răng, ngáy ran như sấm, ngủ say như chết đúng là anh chàng lỗ mãng chết vì đâm chém.
Gia Cát Khổng Minh ngủ như ông đã tả trong bốn câu thơ:
Đại mộng thùy tiêu giác
Bình sinh ngã tự tri
Thảo đường xuân thụy túc
Song ngoại nhất trì trì
(Giấc mộng lớn nào ai tỉnh trước
Bình sinh ta lại biết mình ta
Ngày xuân đẫy giấc trong am cỏ
Ngoài cửa trì bóng ngựa qua)
Ngủ với dáng dấp ấy nên Khổng Minh với hai bàn tay trắng mà giúp
Lưu Bị chia ba thiên hạ, suốt đời ông giữ được phong thái của một trung
thần chí sĩ.
Hoàng Hoa Thám, nhà cách mạng kháng Pháp ngủ mở mắt, sau bị phản mà bất đắc kỳ tử.
THÀNH BẠI Ở CHỖ QUYẾT ĐOÁN HAY DO DỰ
Việc thành bại của cá nhân do nhiều lẽ. Tuy nhiên, quyết đoán hay
do dự là quan kiện trọng yếu cho thành bại. Cái nghĩa cao nhất của hai
chữ quyết đoán khác hẳn hai chữ quyết liệt và bừa liều.
Trương Lương quyết thắng việc ngoài ngàn dặm chỉ cần ngồi trong doanh trại, khác hẳn Hạng Võ hôm nay quyết liều một trận.
Sách tướng dạy rằng:
“Kẻ nhiều ngạo khí hay liều
Kẻ thần bất túc không quyết đoán”.
Xem tướng để biết ai quyết đoán, ai liều, ai do dự, xem ở đâu?
Hãy nhìn vào các bộ vị trên mặt, nếu thấy mi cốt (xương dưới lông
mày) cao ngang, sống mũi nổi, quyền cốt cao, cằm đưa lên như chầu vào
mũi. Đó là tướng dũng cảm quả quyết. Xong nhìn vào nhãn thần (ánh mắt)
thấy sáng trong chứng tỏ trí tuệ cao minh, mắt thẳng thắn con người
không trâng tráo, đảo điên chứng tỏ tâm lý kiên quyết không thay đổi.
Cộng với đôi mắt cắn chỉ (Ngậm chặt rất khít) cũng là dấu hiệu của tính
quyết đoán. Có những tướng trên rất dễ thành công.
Đời Tam Quốc, Tuân Úc trong một cuộc đàm thoại với Tào Tháo đã nói về Viên Thiệu như sau:
- Ngoài mặt thì bao dung nhưng lòng lại đố kỵ
- Do dự không quyết đoán dễ hỏng việc về sau.
- Trị quân lỏng lẻo, pháp lệnh không nghiêm, quân mã nhiều mà vô dụng.
- Cậy là kẻ quyền thế, chuộng hư danh nên chỉ có những kẻ hẹp hòi thấy lợi thì tôn thờ, nịnh bợ.
Tất cả những tính kể trên của Viên Thiệu bởi do dự không quyết đoán mà ra.
Quyết tâm có tạo khí thế cho sự nghiệp như sao đẩu, sao ngưu, đẹp như cầu vồng mọc ngang trên trời.
Tỉ dụ: Phạm Hồng Thái vác bom ném vào tên toàn quyền thực dân Pháp
Merlin. Thành bại hay không không ở chỗ tên trùm thực dân có chết hay
không mà ở chỗ nó làm nổ lên một quyết tâm diệt thù.
Lòng quyết tử tiến lên đường gió bụi
Hai bàn tay thề phục lại sơn hà
Thái Bình Dương lấp bằng niềm tủi nhục
Lấy máu đào rửa sạch máu yêu ma
(Thơ Thái Dịch)
KHÍ TRONG SÁNG NHƯNG HÌNH YẾU ĐUỐI
TÀI CAO MÀ MỆNH BẠC
Hồn tài tử vơi đầy ngụ oan khổ
Khúc đoạn trường nên tuyệt cổ văn chương
Hồn tài tử là khí chất trong sáng. Oan khổ với đoạn trường bởi
trưng hình thể doanh hư. Hữu tài vô mệnh. Ngoại biểu thanh tú thông tuệ,
bản chất thân thể yếu đuối, lúc nào cũng tựa người ốm đau mà không phải
ốm đau. Sách tướng gọi là hình bất túc. Khí thanh nên tài cao, thế chất
yếu đuối nên không lâu bền. Cho nên có mấy câu: “Khí thanh thế doanh
tuy tài cao nhi bất cửu. Ta nói khí độ, khí phách, khí vũ, khí vận, khí
thế tức là nói một cái gì trừu tượng biểu xuất ra bên ngoài mà gốc của
nó là tinh lực vô hình. Chẳng những nó quan hệ đến thọ yểu con người,
còn quan hệ đến giàu sang, nghèo hèn, cát hung họa phúc”.
Sách “Linh Sơn Bí Quyết” nói:
- Hình là chất vậy khí làm cho chất đầy đủ sung thực. Hình nhờ khí
mà nảy nở tươi tốt, thần nhờ chất mà an định. Thần an thì khí tĩnh. Được
thua còn mất không làm cho khí hao tổn. Mừng giận không làm cho kinh
động tinh thần. Lúc nào cũng điềm đạm, bao dung khí độ.
Người nào không uống rượu mà trông như say, không nói chuyện buồn
mà trông âu sầu, dễ kinh hoàng sợ hãi, tinh thần bất định không thể có
sự nghiệp, hoặc có sự nghiệp cũng nửa đời sụp đổ.
Hình là thân xác con người thuộc về thực chất. Khí là linh hồn con
người thuộc về tinh thần. Cả hai liên hệ như dầu với đèn. Dầu khô đèn
không sáng. Đèn không bấc, bóng đèn vỡ, đèn không cháy.
Sách “Ngọc Quản Chiếu thần” nói:
- Đá có ngọc nên núi rực rỡ. Ngọc là khí, đá và núi là người vậy.
Thầy Nhan Hồi, học trò giỏi của Khổng Phu Tử, mặt sáng đẹp cực
thông tuệ nhưng mới ba mươi tuổi đã chết chỉ vì ngũ tạng hư, thân thể
yếu đuối.
Nhà văn Vương Bột, tác giả bài phú “Đằng Vương Các” chết năm 29
tuổi cũng chỉ do cái tướng khí, thanh thể doanh hư. Hình bất túc cho nên
khí thanh chẳng tụ vào đâu được.
TINH THẦN MẠNH, XƯƠNG CỐT KHỎE, QÚY PHÚ THỌ KHANG NINH
Nóng rét gió mưa, tật bệnh là đại địch, mệt nhọc, đói khổ là tai
họa của con người. Nếu muốn chống lại những đại địch và những tai họa
đó, con người ta cần phải đầy đủ tinh lực.
Thần cường cốt tráng mới chịu được gió mưa, nóng rét, mệt nhọc, đói
khổ. Có chịu được mới kiên trì chiến đấu mà tạo nên sự nghiệp.
Kiên trì và nhẫn nại
Không chịu lùi một phân
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần.
Tôn Tẫn bị Bàng Quyên cắt gót, giả điên lăn lộn trong chuồng heo
nếu không thần cường cốt tráng thì hỏi làm sao sống để rửa hận giết Bàng
Quyên.
Hầu như hết thảy các vĩ nhân trong lịch sử thế giới chẳng ai là thiếu cái lực nhẫn nại kể trên.
Thần cường cốt tráng đã, số mệnh tính sau.
Thần cường cốt tráng hiện ra hình tướng như thế nào?
a) Quyền cốt cao rộng,
b) Lông mày dài,
c) Sống mũi hữu lực,
d) Nhân trung dài, sâu,
e) Da đầu không quá căng. (Nếu căng như da trống là chết. Đầu ở đây kể cả mặt).
f) Răng lớn, chặt chẽ khít khao,
g) Huyết sắc vinh phát. (Da mặt hồng hào, không trơn như mỡ, không ám hãm),
h) Pháp lệnh dài, sâu,
i) Tiếng nói lớn mà không cụt,
j) Hơi thở đều đặn.
Thần cường cốt tráng nhưng có rất nhiều trường hợp cốt tráng mà
tinh thần bạc nhược, như mấy anh thân hình thì to lớn nhưng ngu độn, gọi
là hình hữu dư thần bất túc, thì lại thuộc tướng cách khác.
Thần cường là căn bản rồi mới đến cốt tráng.
Bốn câu thơ:
Hỡi tráng sĩ đấu tranh đầy khổ ải
Hãy trau dồi thể hiện những đau thương
Đông thê thê tuốt gươm mài khẳng khái
Hận du du đúc trí ngọc phong sương.
(Thơ Thái Dịch)
Mài khẳng khái, hận du du, đúc trí ngọc là thần cường, chịu khổ ải, đau thương và phong sương là cốt tráng.
Thường thường nếu không có thần cường thì cốt tráng cũng không chịu nổi khổ ải.
Phú quý thọ khang ninh là những gì đến sau thần cường cốt tráng. Đến sau nhưng ở lâu bền.
MẶT SÁNG NHƯ NGỌC
Sách tướng có ghi tướng cách: Nhan như quan ngoc (Mặt mũi sáng như
ngọc quan). Quan ngọc là một loại ngọc tốt không bị vết là cực đẹp.
Người Trung Quốc xưa dùng loại ngọc này để gắn lên mũ các quan đại thần.
Nhan như quan ngọc là tướng phú quý. Người trẻ tuổi mặt sáng như
quan ngọc đi thi là đỗ đạt cao, hoặc cha mẹ giàu có hiển vinh. Tướng này
chỉ có một điểm đáng chê trách là những anh mặt sáng như ngọc quan tính
nhút nhát, nếu không nhát thì kém kiên trì. Muốn biết phải nhận xét cho
tinh vì nhan như ngọc có nhiều loại: Nếu bộ mặt trắng như ngọc ấy hốt
nhiên đổi thành giống như xoa phấn thì đâm ra phản trắc, bất lương gọi
là phấn diện sở khanh, đàng điếm.
Nhân vật chính trị cận đại là Uông Tinh Vệ lúc thiếu niên nhan như quan ngọc sau đổi ra phấn diện khiến phải chết ô danh.
Mặt trắng sáng có mị thái thiếu nghiêm túc là bọn cợt nhả lẳng lơ.
Mặt trắng sáng cần thân thể khôi vĩ, đẹp mà không mị (nịnh nọt mơn trớn).
Xin nhớ thêm: Diện như quan ngọc chỉ là một tướng cách thôi.
Nó không có nghĩa cứ phải mặt hồng hào, trắng sáng mới quý cách và sắc
diện xanh, đen, nâu là tiện cách. Còn tùy hình cục kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ của mỗi người.
Nói chung về sắc trạch có hai yếu kiện:
1) Màu da nên bền bỉ, ngồi lâu không biến đổi,
2) Phải có quang ánh khác thường.
Nếu không chỉ là loại mặt trắng đi hát tuồng hoặc đi hầu.
Mặt trắng tối kỵ vô tu (không râu), sách tướng có câu: Bạch diện vô tu chung thân phá bại (mặt trắng không râu về già phá bại).
Bạch diện vô tu tức là mặt đít ếch. Trắng nhẵn thín như đít con ếch.
Lịch sử dân quốc có hai đại nhân vật vì tướng cách sinh ra phạm diện bạch vô tu nên lúc già bị phá bại, danh tiếng bị bôi lọ.
Vị thứ nhất là Uông Tinh Vệ, nhân vật bi kịch của chính trị; Uông
Tinh Vệ tướng mạo rất đẹp, phong độ hiên ngang, ngũ quan đoan chính khả
dĩ gọi là “đẹp trai”. Họ Uông tuyệt thế thông minh, thi tứ văn chương
đều thông hiểu. Lúc trẻ dám làm chuyện kinh thiên động địa hành thích
“nhiếp chính vương” nhà Thanh. Tôn Văn về nước rất trọng dụng Uông Tinh
Vệ khiến cho công nghiệp của ông sáng lạn như mặt trời giữa trưa. Trong
khi mọi người đều ngưỡng mộ họ Uông thì riêng ông Ngô Trĩ Huy cũng là
một nhân vật chính trị tỏ ra khinh thị Uông. Lý do Huy biết xem tướng
nên nhìn thấu cuộc đời Uông Tinh Vệ. Theo sự phẩm bình của ông Huy về
tướng Uông Tinh Vệ thì:
Mắt Uông Tinh vệ đã tròn sáng lại thêm dị quang, lòng mắt trong vắt
xanh da trời chứng tỏ hiệp khí và linh mẫn. Chỉ tiếc một điều là diện
bạch vô tu. Hậu vận hư hết, danh tiếng bị phỉ nhổ.
Lời đoán của Huy bị anh em chê cho rằng họ Ngô chủ ý ganh ghét nên dùng tướng học để dèm.
Kháng chiến chống Nhật bùng nổ, Uông Tinh Vệ đi theo Nhật cam tâm
lập chính phủ bù nhìn. Nửa đường đứt gánh, Uông Tinh Vệ lo nghĩ quá
thành bệnh mà chết. Nhật đem chôn ở núi Hoa Sơn. Nhật đầu hàng, mộ của
Uông Tinh Vệ bị nhóm thanh niên ái quốc đem mìn lên phá, rồi tiếp đến
hàng trăm quyển sách, hàng nghìn bài thơ thống mạ Uông Tinh Vệ.
Người thứ hai là Đường Kế Nghiêu.
Nghiêu cùng Sái Ngạc đem quân lên phía Bắc đánh Viên Thế Khải,
thành công, danh vọng vang lừng toàn quốc. Về phương Nam, ông cắt đất
lập giang sơn riêng.
Giữa lúc Đường Kế Nghiêu đắc ý nhất thì tại Vân Nam bỗng có một vị
sư không biết từ đâu tới căng biển ngữ xem tướng. Trên biển đề mấy chữ: “Chỉ theo duyên nghiệp mà chỉ bảo cho mười anh hùng nhân vật” dưới ký Nga Mi Sơn cao tăng.
Đường Kế Nghiêu thấy lạ bèn cho vời vị cao tăng kia tới khẩn khoản xin cho biết cuộc đời mình.
Trông Đường Kế Nghiêu hồi lâu rồi vị cao tăng viết:
- Mi nhãn dữ các bộ vị cực tương đối (mi và mắt cùng các bộ vị rất hợp).
Ngoại biểu anh tuấn bất phàm (tướng bên ngoài anh tuấn khác thường).
Duy thị bạch diện vô tu nam ngôn vĩnh thọ (tiếc vì mặt trắng không râu nên khó lòng lâu bền).
Hữu thập niên đại vận (có mười năm đại vận).
Thập niên hậu ưng nghi cấp lưu dũng thoái quảng kết thiện duyên,
tích đức bảo thọ (mười năm sau nên rút cho mau, gắng làm điều thiện mới
mong khỏi tai họa).
Đường Kế Nghiêu kiêu hãnh về thân phận chắc như bàn thạch của mình nên bao nhiêu lời vị cao tăng đều bỏ ngoài tai.
Dân quốc thứ 16, liên tiếp biến chuyển, hết Bắc phạt đến Vân Nam
chinh chiến. Đường Kế Nghiêu bị đánh bại uất ức quá mà chết trong cảnh
bần khổ đáng thương.
Nghiêu chết năm bốn tám tuổi, ứng với tướng Diện bạch vô tu chung thân phá bại.
Cái kỵ thứ hai của mặt trắng là nộn sắc trông trẻ con. Người ta lớn
lên giống như vỏ cây theo với tuổi tác mà già dặn, đanh thép. Nếu lúc
nào mặt cũng bụ bẫm nõn ra như đứa trẻ là phản tướng chết yểu hoặc nghèo
hèn. Ông Quỉ Cốc Tử nói:
- Sắc nộn khí gian tà tiểu nhân, túng hữu thành lập, diệc bất
trường cửu, (sắc non khí non, tiểu nhân gian tà, dù có thành việc gì
cũng chỉ trong một thời gian ngắn). Cùng diện bạch mà giá trị khác nhau
rất xa, cái khó của xem tướng là thế. Cần biết vàng si vàng thực mới là
mắt tinh đời.
THANH TƯỚNG (Xem tướng tiếng nói)
Chuông có âm thanh, người có tiếng nói.
Chuông làm bằng đồng tốt, da tốt thì âm thanh tốt. Người ta cũng vậy.
Xem tướng phân ra: Nhất thanh nhị sắc tam hình. Tiếng nói quan trọng bậc nhất, thứ đến sắc diện, sau tới hình thể.
Thầy Tử Lộ ngồi gảy đàn, tiếng đàn nghe sát phạt. Đức Khổng Tử lấy
làm kinh sợ chạy vào trong nhà xem thì ra lúc ấy đang có con mèo đuổi
bắt giết con chuột nên ảnh hưởng đến tình tự người gảy đàn. Đàn mà còn
vậy huống hồ tiếng nói con người ta. Thời kỳ tổng thống Roosevelt còn
tại vị, mỗi tối ông lên đài phát thanh kể chuyện cho trẻ em Mỹ nghe
trước giờ chúng đi ngủ. Tiếng ông đầm ấm, cả nước Mỹ cứ vào giờ ấy lắng
nghe Roosevelt.
Macr Antoine chỉ dùng tiếng nói của mình mà đánh đuổi được nhóm Brutus để phục hồi lại quyền vị Cesar.
Muốn thuyết phục ai trước hết phải có một âm thanh truyền cảm cái
đã. Nói nghĩa lý mà âm thanh nhức nhối lỗ tai chẳng ai thèm nghe. Sách
tướng đưa “thanh” lên hàng đầu là đúng. Oai của con sư tử là ở tiếng gầm
chuyển động trời đất của nó. Nếu con sư tử mà kêu chin chít như chuột
thì thật khôi hài.
Cổ nhân thường ca ngợi tiếng tốt của các lãnh tụ vua chúa bằng
tiếng nói như tiếng chuông, thanh nhược trản chung. Tại sao ví tiếng nói
như âm thanh của chuông đồng? Vì tiếng âm hưởng lan rộng và ngân. Tiếng
nói của con người cao quý cũng phải có âm hưởng và vĩ thanh (tức tiếng
vang ngân còn vẳng lại bên tai). Nếu nghiên cứu về âm thanh học
(acouistique) thì mới thấy sách tướng nói rất đúng.
Muốn có tiếng ngân và âm hưởng lan rộng thì nơi phát ra âm thanh
phải đủ mọi điều kiện để âm thanh lan rộng và ngân. Điều kiện ấy cho
tiếng nói con người là khí lực, nguyên khí, nơi đan điền (bộ phận nằm ở
trong bụng dưới).
“Quý nhân chi thanh xuất ư đan điền
Tiểu nhân chi thanh căn tại thiệt đoan”.
Nghĩa là tiếng nói quý nhân xuất ra từ đan điền còn tiếng nói tiểu nhân từ đầu lưỡi.
Thanh tướng tốt xấu như thế nào?
Trầm ấm, có âm điệu, đĩnh đạc, hơi dài là tốt. Líu ríu, láu táu, thều thào, lí nhí, hơi ngắn là xấu.
“To như âm vang chuông trống
Nhỏ như ngọc thuỷ lưu minh”.
(Nước suối mát chảy róc rách, thanh khiết âm điệu) là tốt. Tiếng đục, tiếng thô, the thé là xấu.
Người to tiếng nói nhỏ dễ gặp hung tai. Người nhỏ tiếng nói lớn đại quý.
Tiếng nói trì trệ, khô cằn, trước nhanh sau chậm, trước chậm sau
nhanh, chưa hết tiếng hơi thở đã mất, chưa nói mặt đã biến sắc đều thuộc
loại tiện tướng.
Với phụ nữ, thanh tướng càng quan trọng. Đàn bà chỉ cần một tiếng
nói sang cũng đủ làm mệnh phụ phu nhân. Chỉ cần tiếng nói đàn ông cũng
đủ ăn thịt vài ông chồng.
Đời nhà Thanh có ông Đới Hồng Từ người Quảng Đông, thuở nhỏ nổi
danh thần đồng. Chưa đầy hai mươi tuổi đỗ tiến sĩ vào triều làm quan tới
hình bộ thượng thư. Hồng Từ còn có hai anh em nữa cũng đỗ đạt quan cao.
Theo dân cư kể lại thì sở dĩ anh em Đới Hồng Từ được hoạn đồ đắc ý là
nhờ dị tướng của bà mẹ. Nguyên lai, Đới Công, cha của Đới Hồng Từ vốn
hiểu biết thâm sâu về khoa xem tướng, học rộng nhưng vì mệnh số hẩm hiu
nên không đạt đành phải bỏ đường làm quan vào đường buôn bán. Tuổi đã
cao vẫn chưa lấy vợ. Ngày ngày miễn cưỡng ghi sổ, ghi sách, đủ chi dùng
độ nhật vì cơ sở buôn bán cũng chẳng phát triển bao nhiêu. Một hôm có
một cô gái vào tiệm mua hàng. Trông mặt cô ta xấu nhưng được cái sống
mũi chính trực, mắt trong sáng nhất là tiếng nói réo rắt âm điệu hơi dài
nghe dễ chịu. Đới Công lấy làm lạ, xấu là tướng dục nhưng âm thanh như
vậy là thần tú. Dĩ nhiên cái đẹp ấy không hợp với tục nhãn nên cô chưa
có chồng. Đới Công tìm người mai mối hỏi cô gái làm vợ.
Kể từ sau khi lập gia đình, cửa tiệm buôn bán của Đới Công mỗi ngày
mỗi đông người mua bán. Vợ chồng hòa thuận, đẻ liền ba con trai đặt tên
là Đới Hồng Hiến, Đới Hồng Huệ, và Đới Hồng Từ. Bà mẹ dạy con rất khéo,
tối tối trong nhà tiếng học ran ran. Họ Đới phát phú quý làm dân vùng
Quảng Đông đi đến đâu cũng nghe kể.
Trong thiên nhiên, âm thanh vĩ đại không gì bằng sấm sét.
Tiếng sấm mùa xuân làm cho vạn vật tỉnh giấc, tiếng sét mùa hạ làm
cho mưa gào gió thét. Sấm sét để tuyên thị cái oai của trời đất. Nay lấy
sấm sét ví với tiếng nói của người để tạo hình ảnh cho cái oai đó.
Sách có câu: Tâm hữu sở dục thanh tất tuỳ chi (Mình muốn thế nào,
âm thanh tuỳ ý muốn ấy). Thanh âm biểu hiện tinh thần thể phách, trí tuệ
và khí chất của một người.
Sách “Lễ Ký” viết:
“Cảm ư vật nhi động, cố hình ư thanh, thanh tương ứng cố sinh biến, biến thành phương vị chi âm”.
Qua nghĩa câu trên, danh từ thanh âm thì âm là dư âm của thanh, như
tiếng ngân vang của chuông kêu. Thanh mà vô âm là thanh xấu.
Âm thanh cao quý nhất xuất phát từ đan điền chứng tỏ thần khí đầy
đủ, có cương có nhu, nghe xa thấy hùng vĩ, nghe gần thấy du dương dậy
lên như cưỡi gió, im mà vẫn văng vẳng như dây đàn.
Có tiếng nói như thế, giàu sang phú quý kiêm phúc thọ vô lượng.
Âm thanh xấu nhất nghe héo hắt, khô khan, nhức tai, vẩn đục, gián
đoạn, nặng nề, vỡ nứt, tràn đổ ra ngoài. Héo hắt, chủ bần cùng đoản thọ.
Khô rít, chủ khốn đốn ức uất suốt đời. Vỡ nứt, chủ phá bại cơ khổ. Nặng
đục, chủ thô lỗ. Tràn đầy nước bọt bắn tung toé, đoản thọ vạn sự vô
thành. Nhức tai, chủ tài lộc bất định dù có trọng quyền cũng lận đận,
lao đao. Gián đoạn, chủ hữu danh vô thực, cuối cùng thân bại danh liệt.
Coi tướng âm thanh cần phối hợp với thái độ khi nói chuyện. Người
nào cười nói tự nhiên mới tốt. Vừa nói chuyện mà mặt đã đỏ lên không nên
cùng người đó bàn chuyện bí mật. Lúc cười nói phảng phất có khốc âm
(tiếng khóc) tất là cô độc bi khổ. Hay cười nhạt, âm thanh bạc bẽo là
loại vô tình, vô nghĩa, thú đội lốt người. Tiếng nói từ đầu lưỡi xuất
phát đa số làm nô tì. Đàn ông tối kỵ nói ỏn ẻn như đàn bà cũng như đàn
bà tiếng ồ ồ đàn ông.
Nữ hữu nam thanh tất hình phu khắc tử. Nam hữu nữ thanh thoát bất
tiện bần. Biểu hiện nỗi mừng chớ quá trớn thành phóng túng, nên thanh
khiết không thô tục. Biểu hiện nỗi giận nên hùng tráng chớ cay nghiệt,
mạnh mà không ác. Biểu hiện nỗi sầu thảm nên bùng ra chớ tàn úa héo hon,
khóc như mưa rào mà không uất ức mỏi mòn. Biểu hiện nỗi vui thú nên nhẹ
nhàng chớ điên cuồng.
TƯỚNG BẤT ĐẮC KỲ TỬ
Đặng Diễn Đạt quê quán ở Mai Huyện, tỉnh Quảng Đông. Thời kỳ Quốc
Cộng phân liệt, Đạt là một trong những lãnh tụ Quốc Dân Đảng bèn tách
rời Đảng để tổ chức lập Đảng thứ ba, tự tôn mình làm Đảng trưởng. Lúc ấy
Đạt mới có ba mươi tuổi.
Dân Quảng Đông không mấy người biết mặt Đạt vì ông ta xuất ngoại du
học từ thuở nhỏ. Về nước giữa khi Tưởng Giới Thạch hoàn thành Bắc phạt
lật đổ Viên Thế Khải. Đặng Diễn Đạt được giữ chức chủ nhiệm tổng chính
trị bộ kiêm giáo dục trưởng trường Võ bị Hoàng Phố.
Một hôm Đặng Diễn Đạt cùng Borodine ngồi xe song mã đi chơi phố ở
tỉnh Vũ Xương. Borodine là trưởng phái đoàn Xô Viết sang Tầu để giúp đỡ
Cộng sản Trung Quốc hoạt động cho nên thiên hạ thấy hai người dừng xe ở
đâu là xúm lại xem đông đảo. Có những người liên hệ với trường Hoàng Phố
chỉ bảo xầm xì cho dân chúng biết đó là Đặng Diễn Đạt, nhân vật chính
trị quan trọng. Đây là lần đầu họ trông thấy mặt họ Đặng.
Trong đám quần chúng có thầy tướng trứ danh tên Dã Hạc đạo nhân.
Với dân chúng và con mắt tục thì ai ai cũng trầm trồ khen ngợi Diễn Đạt
khí vũ hiên ngang, mặt to tai lớn, có oai xứng đáng bậc yếu nhân của
chính phủ.
Chỉ riêng Dã Hạc đạo nhân lắc đầu than tiếc: Hung tướng 38 tuổi bất
đắc kỳ tử. Có người hỏi lý do. Dã Hạc đạo nhân cười mà rằng:
- Tướng cục họ Đặng thuộc quý cách đã đành nhưng đi đôi với quý
cách ấy còn tướng đoản mệnh bất đắc kì tử. Cái tướng ấy nằm ở đôi mắt,
mắt như mắt heo mà lại đầu lớn, má to như đầu heo tránh sao cho khỏi
hung tử.
Đảng thứ ba của Đặng Diễn Đạt có nhiều người ủng hộ nên thế lực
chính trị của ông không phải nhỏ. Ít lâu sau, Đạt qua Âu Châu. Đi theo
Đạt là người họ Chương. Có người biết chuyện đoán tướng của Dã Hạc đạo
nhân, khuyên họ Chương chớ theo Đạt. Họ Chương không tin tướng số chỉ
tin vào sự thành công của đệ tam Đảng.
Khi Đạt ở Bá Linh thì tại Mạc Tư Khoa, Staline chú ý đến Đạt nên
đánh điện mời Đạt qua Nga. Đạt dự tính chuyến đi này ngoại giao với Điện
Cẩm Linh sẽ qua đường Tây Bá Lợi về nước. Trước khi đi, nhân uống rượu
vui mừng, Đặng Diễn Đạt thấy Chương nói chuyện Dã Hạc đại nhân nên mới
chứng minh với bạn, Đạt rủ Chương đến thăm một cụ già Trung Quốc ở Bá
Linh đã lâu đời, giỏi xem tướng tên là Thượng lão nhân hỏi tướng cách
mình, chuyến đi thành công hay không? Hỏi cho vui chứ thiệt Đạt chẳng
tin. Thượng lão nhân cho biết chuyến đi vô ích và Đạt phải trở lại Bá
Linh. Đạt và Chương nhìn nhau cười.
Qua Mạc Tư Khoa ăn chực nằm chờ gần một tháng, Đạt mới gặp Staline.
Mục đích của Staline là dùng Đặng Diễn Đạt thay thế cho Trần Độc Tú,
lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng khi gặp mặt thì Đạt nói cho
Staline hay rằng mình không phải là đảng viên Đảng Cộng sản nên Staline
đổi ý lập tức và ra lệnh cho các cơ quan an ninh trục xuất Đạt ra khỏi
nước Nga ngay. Do đó, Đạt không qua Tây Bá Lợi Á về nước mà phải quay
lại Bá Linh đúng như lời Thượng lão nhân.
Thâm tâm Đạt có ý thầm phục lão đoán tướng số. Thượng lão nhân nói:
- Cái lý của tướng học tương tự như tâm lý học, trong lòng vui nét mặt vui, trong lòng buồn nét mặt buồn.
Đặng Diễn Đạt cãi:
- Đấy là hiện tượng tâm lý chứ không phải hiện tượng tướng lý.
Thượng lão nhân vốn ít ưa tranh luận nên bảo người nhà đưa cho Đạt gương soi mặt nói:
- Ông hãy soi gương rồi cho tôi hay mặt ông có những điều gì đáng chú ý.
Đặng Diễn Đạt nhìn gương hồi lâu nói:
- Tôi chỉ thấy đầu tôi lớn quá mà mắt tôi nhỏ quá.
Thượng lão nhân nói:
- Chẳng những mắt nhỏ, nó còn hơi đục. Hậu vận của ông tùy thuộc
đôi mắt. Riêng tôi e khó lòng thiện chung. Đảng thứ ba của ông chắc
chẳng thành cơm cháo gì đâu. Ông nên học hai chữ tri mệnh là hơn.
Đạt trả lời:
- Làm chính trị hơn nữa là một lãnh tụ, trách nhiệm ở chỗ xung phá
khó khăn trở ngại. Tôi đã nghĩ kỹ, khi về nước tất phải gặp nhiều nguy
hiểm, nếu tôi không vượt qua thì ai vượt qua cho tôi, cho nên tôi quyết
làm cho đến cùng, bất quá ngồi tù. Tù còn có nghĩa là một hành động, chứ
chẳng làm gì cả nghe không được.
Thượng lão nhân nói:
- Tôi chỉ nhân danh nhà tướng số mà khuyên ông thôi. Mắt ông thuộc
loại mắt hung tử. Nếu ông không ở lại ngoại quốc, tướng ông thuộc loại
Nam nhân Bắc tướng. Nếu ông không ẩn thân về phương Nam, chỉ ba năm nữa
nhất định ông chết thảm.
Đặng Diễn Đạt không nói gì. Về Trung Quốc, Đạt trương cờ đệ tam
Đảng hoạt động. Nhờ bà Tống Khánh Linh, vợ của Tôn Trung Sơn ủng hộ, Đạt
thiết lập đại bản doanh tại Thượng hải chiêu tập hội nghị toàn quốc.
Trong khi ấy, phe Quốc Dân Đảng thế lực ngày mỗi lớn. Tưởng Giới
Thạch từ bỏ chính sách liên hiệp với C. S. của Tôn Văn bằng cách dùng vũ
lực bắt giết phe Cộng sản luôn thể cả những lực lượng chính trị không
theo đường lối Quốc Dân Đảng.
Thấy Đặng Diễn Đạt có Tống Khánh Linh hỗ trợ, Tưởng Giới Thạch càng
thấy cần phải đập nát Đảng thứ ba trước khi nó thành trưởng. Đằng sau
Tưởng là những thế lực tư bản ngoại quốc nên việc thỏa thuận với nhà
đương cuộc Tô Giới Thượng Hải dễ dàng. Chờ đúng ngày đại hội nghị toàn
quốc, Tưởng Giới Thạch xua mật vụ quét một mẻ. Đạt bị giải về giam trong
nhà ngục Nam Kinh. Mặc dầu có lời xin của Tống Khánh Linh nhưng Tưởng
Giới Thạch vẫn ngầm sai người mang Đặng Diễn Đạt ra vùng ngoại ô bắn
chết. Nơi Đạt bị bắn là Vũ Hoa Đài.
Hung tử có nhiều cái chết khác nhau: chết trận, chết vì trúng gió,
chết treo hay bị tử hình, chết do đánh nhau đâm chém, chết tai nạn, chết
vì ngộ độc, tự sát, chết vì gái v. v...
Xem tướng chỉ thấy những dấu hiệu hung tử, nhưng hung tử ra sao thì
khó lòng đoán ra. Còn phải tuỳ tính, tuỳ môi trường xã hội mỗi người.
Tỉ dụ: tính tình mê gái, mãn diện đào hoa nên đoán là chết vì gái. Tính
tình hiên ngang, bộ vị anh hùng nên đoán là chết trong lao ngục hoặc ám
sát chính trị. Tính tình keo kiệt, tham lam nên đoán chết vì thù oán
hoặc cướp bóc. Cùng hung tử nhưng phải phân biệt anh hùng tiểu nhân để
luận đoán cho tường. Qua các sách tướng pháp như: Tướng lý hành chân,
Thuỷ Kính, Liễu Trang, Thiết Quan Đạo nhân Luân Đại Thống, Ngọc Quản
Chiếu Thần thì những tướng hung tử như sau:
- Diện hữu sát khí, trên mặt có sát khí, thông thường ta gọi là mặt
sát nhân. Ai trông thấy cũng ghê sợ mà chẳng phải oai nghiêm. Sắc diện
sam sám, mắt dữ, răng sám khô, đại khái như thế. Sát khí cảm thấy nhiều
hơn nhìn rõ được hình thù.
- Nhãn tướng hung tử gồm chín loại:
a) Mắt tam giác (Tam giác nhãn).
b) Mắt chữ nhất chảy thẳng một vệt nhỏ như ti hí mắt lươn.
c) Mắt cá vàng (kim ngư nhãn) lồi ra, con ngươi nhỏ.
d) Quỷ nhãn, đuôi con mắt không xếch lên mà quặp xuống.
e) Lộ quang, mắt long lên sòng sọc hoặc sáng quá.
f) Tẩu quang, (Tôi chưa biên nhận được quang ánh này nên không dám
nói, chỉ ghi nguyên văn trong sách để quý vị độc giả xem tẩu quan là mục
quan tiết ư nhãn ngoại).
g) Tán quang, ánh mắt đã tan rã trông mắt như mất hồn (Mục vô thần).
h) Có gân máu chạy ngang con ngươi.
i) Tứ bạch, bốn phía lòng trắng.
- Hàm bạch, đứng đằng sau trông thấy xương quai hàm bạch ra,
xương càng khô không có thịt càng ác liệt. Tỉ dụ: hàm tổng thống
Abraham Licoln, thủ tướng Mussolini, Rudolph Hess; tướng ngữ gọi bằng
hàm long, hàm chắn.
- Trán hãm mũi nguy, trán hãm thế nào?
Một là lồi lõm không đều, bên nhô bên lõm.
Hai là trán lệch vẹo không ngay ngắn.
Ba là trán quá thấp, tóc xâm chiếm phần nửa trán.
Mũi nguy thế nào? Có 6 loại:
1) Sống mũi cong gẫy khúc.
2) Mũi tẹt dí xuống.
3) Mũi vẹo.
4) Mặt quá to mũi quá nhỏ.
5) Mũi thật cao mà lưỡng quyền quá thấp.
6) Quyền quá cao mà mũi quá thấp.
- Đứng ngồi không yên: Đứng ngồi nhấp nhổm không yên lúc nào cũng
như có lửa đốt trong tâm can. Con gái là tiện tướng, con trai là hung
tướng.
Tuy nhiên, nếu cách cục thuộc tướng khỉ thì lại phải hiếu động mới tốt. Nên lưu ý:
- Khí bạo, tính cấp, kiêu ngạo và kinh bạc, lạnh lùng, tàn nhẫn là nói về tâm tướng của hung tử.
Phá cách: Thường thấy tài tử, trung thần, hiếu tử, chân nhân
tướng mạo thanh kỳ tú lệ mà bất đắc kỳ tử là do một cách phá cách nào
đó (xin xem ở những chương khác).
Ngoài ra, cần phải biết những câu phú sau đây:
Hình như trư tướng tử tất phân thi
(Hình giống con heo, chết thây bị mổ xẻ).
Si lộ thần hân tu phòng dã tử
(Răng lộ môi cong, đề phòng chết đường).
Mã diện xà tinh tu tạo hoành tử
(Mặt dài mặt ngựa, mắt con rắn chết bất kỳ).