Ngoài ra, học viên phải nhớ
rằng sự định trí tự nhiên làm cho các bắp thịt trong thân thể bị căng
thẳng
. Bằng cớ của sự tự động này là sự tham thiền thường hay cau lông mày. Bắp thịt bị căng thẳng như thế không những làm cho xác thân mệt mỏi nhiều mà còn ngăn cản không cho thần lực thiêng liêng chảy xuống. Vì vậy trong khi tham thiền cũng như ở vào nhiều lúc trong một ngày, khi đang làm công việc thường xuyên, người học viên phải thỉnh thoảng chú ý đến xác thân và “ xả hơi” thong thả cho đỡ mệt.
. Bằng cớ của sự tự động này là sự tham thiền thường hay cau lông mày. Bắp thịt bị căng thẳng như thế không những làm cho xác thân mệt mỏi nhiều mà còn ngăn cản không cho thần lực thiêng liêng chảy xuống. Vì vậy trong khi tham thiền cũng như ở vào nhiều lúc trong một ngày, khi đang làm công việc thường xuyên, người học viên phải thỉnh thoảng chú ý đến xác thân và “ xả hơi” thong thả cho đỡ mệt.
Những
người bản tính mạnh mẽ và nồng nhiệt thường nói và viết một cách khó
khăn để diễn tả ý tưởng mình, vì như thế họ bắt khối óc phải căng thẳng
đột nhiên và quá mạnh. Họ phải học cách làm cho khối óc vận chuyển lần
lần từ chút một, đúng như ta châm điện vào bình một cách thong thả; một
lúc xả hơi nghỉ ngơi hoàn toàn sẽ khiến họ vượt được sự khó khăn này.
Cũng
giống như một diễn giả khi trí óc mệt mỏi vì làm việc quá độ thì dòng
tư tưởng bị đứt quãng hoặc ông ấy quên phứt đi một chữ không sao có thể
nhớ lại được nữa; lúc đó thái độ khôn ngoan nhất là phải nghỉ “xả hơi”
đàng hoàng trong một lúc, phải nghỉ ngơi hoàn toàn, chớ đừng quá cố gắng
để nhớ lại vì sự cố gắng này chỉ làm cho khối óc bị căng thẳng thêm mà
thôi. Học viên cũng phải nhớ rằng sự định trí không phải là một sự cố
gắng của xác thân. Khi mà tinh thần trụ vào một ý nghĩ thì tức là có sự
định trí rồi. Thật khó lấy lời nói mà diễn tả một sự việc ta chỉ có thể
hiểu được nhờ kinh nghiệm bản thân nhưng định trí không phải là cố gắng
giữ mãi tinh thần định vào một tư tưởng nào đó, nhưng chính là ta phải
để cho tinh thần được nghỉ ngơi trên tư tưởng ấy một cách yên lặng và ổn
định hoàn toàn. Ngoài ra, học viên phải thấm nhuần ý nghĩ này - và áp
dụng nó vào kinh nghiệm nội tâm của chính mình theo đúng giá trị của nó.
Trung tâm của tư tưởng là thể trí chớ không phải là khối óc; ngoài ra,
ngay ở những buổi ban đầu, dường như ta phải cố gắng để làm cho khối óc
được yên ổn; thật ra, sự định trí liên quan đến thể trí chớ không liên
quan đến xác thân.
CON ÐƯỜNG PHỤNG SỰ
Người
học viên Thông Thiên Học phải luôn luôn nhớ rằng trong bất cứ việc gì y
làm, cái lý do tốt đẹp và công bằng là một điều tối quan trọng, và y
chỉ có thể tiến lên cao đến các Chơn Sư nhờ những hành động vị tha và vô
ngã do lòng thành thực muốn giúp đỡ nhân loại. Trong những giai đoạn
đầu, lòng người chí nguyện không cần phải tràn đầy tình thương yêu nồng
nhiệt đối với toàn thể nhân loại. Chúng ta dám nói rằng y chỉ cần tìm
cách hành động một cách không ích kỷ đối với những người gần cận xung
quanh là đủ rồi : vì nếu y bền chí, y sẽ càng ngày càng trở nên nhạy cảm
đối với tiếng kêu cứu đau thương của toàn thể nhân loại.
Tuy
nhiên, người Thông Thiên Học đã bắt đầu hiểu được phần nào đời sống
tinh thần thì nên biết rằng sự tham thiền và sự giúp đời phải bổ túc lẫn
cho nhau; hợp nhất với nhau chúng cho ta những kết quả tốt lành nhất.
Người ta không gia nhập Hội Thông Thiên Học để được lợi lộc : chúng ta
là học viên Thông Thiên Học vì những giáo lý của sự Minh triết Trường
tồn Vĩnh cữu đã thấm nhuần sâu xa vào trái tim chúng ta và đang sửa đổi
lại đời sống của chúng ta. Dấu hiệu của con người tinh thần là ban rải
tràn trề mọi sự cho kẻ khác, chớ không đòi hỏi kẻ khác phải cho mình cái
gì; chỉ như vậy ta mới tìm thấy hạnh phúc thực sự. Vì thế, đối với Hội
Thông Thiên Học, ta phải có thái độ và tự hỏi như thế này : “tôi có làm
gì để giúp đời ?”
Khi người hội viên mới
gia nhập Hội Thông Thiên Học thì y gặp những dịp để giúp đời; y đón nhận
những dịp phụng sự này như thế nào [9] ? do đó người ta có thể đánh giá
cái khả năng và giá trị của y. Những sự giúp đỡ nhỏ nhặt được làm một
cách trung thành thì quan hệ hơn là những công cuộc lớn lao mà người ta
dự phần vào một cách đột nhiên theo ý thích trong chốt lát. Người học
viên có thể tiến bộ là kẻ trung thành trong những công việc nhỏ nhặt như
sẵn sàng rửa cửa kính, đốt lò sưởi của phòng nhóm của chi bộ, sẵn sàng
làm những công việc nhỏ bé, lặt vặt trong các buổi nhóm, y luôn luôn có
mặt rất đúng giờ ở chi bộ cũng như ở mọi buổi nhóm mà y hứa sẽ tham dự, y
sẵn sàng tự rèn luyện để có thể viết văn và diễn thuyết. Về điểm này,
tưởng không cần phải nói dài hơn nữa. Chỉ nói qua một lời cho người học
viên đứng đắn cũng đủ hiểu, và câu chuyện ngụ ngôn về những tài năng và
những nén bạc thực rất thật thích hợp với công việc Thông Thiên Học
[10].
Phải phụng sự theo lối đó ta mới có
thể thấy con đường dẫn đến Chơn Sư . Vì câu châm ngôn của người học
viên phải là tự ý và vui lòng phụng sự. Và ở trong niềm vui phụng sự các
nhu cầu của kẻ khác, y học quên mình và quên sự tiến bộ riêng của mình.
Y hãy tìm cách làm mọi công việc phụng sự nhân danh Chơn Sư , y hãy làm
việc như vậy một cách kiên nhẫn và đều đặn; y hãy tiếp tục tiến bước
cho tới ngày y đối diện được với Chơn Sư và cảm thấy được ở nơi tâm khảm
y nỗi vui vô tả của kẻ tự hiến mình cho Ðấng mình hằng tôn kính.
Tuy
nhiên, ta chớ nên tưởng rằng trong sự giao thiệp giữa Chơn Sư và đệ tử,
có một sự gì bó buộc hoặc làm tiêu hủy cá tính của người học trò, nhận
chìm cá tính này trong dòng thần lực của Chơn Sư. Trái ngược lại, ảnh
hưởng của Chơn Sư không phải là một sức mạnh bên ngoài thôi miên ta, mà
chính là một sự giác ngộ vô cùng tuyệt diệu, từ bên trong chiếu ra, đó
là một sức mạnh ta không chống cưỡng lại được vì nó hết sức thích hợp
với cái nguyện vọng cao siêu nhất của người học trò, làm tỏ lộ rõ ràng
cái bản chất thiêng liêng của chính y. Theo ý nghĩa đúng thực nhất, Chơn
Sư chính là một con kênh ban rải đời sống thiêng liêng và đời sống phát
sinh ở nơi người học trò được hoạt động. Thật vậy, người học viên nào
học về khoa học thì có thể so sánh sự việc này một cách rất giống với
cách tạo ra luồng điện. Vì bản thể của thầy và trò đều giống nhau nên
ảnh hưởng của Chơn Sư mới kích thích đến tột độ những đức tính cao
thượng và trong trắng nhất ở nơi người học trò.
Tình
thương yêu của Chơn Sư đối với người đệ tử thì giống như ánh sáng mặt
trời khiến cho nụ bông sen hé nở để đón nhận khí trời tươi mát buổi bình
minh, và người ta có thể nói đúng rằng một nụ cười của Chơn Sư khiến
cho lương tri của người học trò được nới rộng đến nỗi dù có tham thiền
một cách uyên bác hơn nhiều tháng về tính chất của tình thương yêu,
người học trò cũng không thể tự sức mình mà đạt được sự nới rộng như thế
đó.
Cầu mong sao cho những lời khuyên
vắn tắt trên đây về sự tham thiền có thể dẫn dắt vài ba linh hồn đến sự
hiểu biết các vị Ðại Giáo Chủ mà nhân danh Ngài phụng sự nhân loại.
Cầu mong Ðấng Chí Tôn khêu gợi trong chúng ta cái ngọn lửa tình thương của Ngài và ngọn lửa của lòng từ ái ngàn đời.
.I.WEDGWOOD
Chú thích:
[1] PLOTIN : một nhà hiền triết Tây Phương thời xưa.
[2] TRỪU TƯỢNG : mắt không trông thấy, tay không rờ thấy được, nhưng có thể lấy cái trí mà hiểu được (lời giải của dịch giả).
[3] RAYON : Cung; có 7 cung : cung Ý chí, cung Bác ái v.v
[4] Tấm màn vật chất đầu tiên, rất mảnh mai mịn màng che phủ lên Thượng Ðế tuyệt đối, chất tiên sinh khí sáng ngời.
[5] Có đăng báo “Revue Théosophique” năm thứ 15, 1904-1905.
[6] cụ thể : rõ rang
[7]
Luân xa : những trung tâm thu nhận và ban rải thần lực trong thân thể
(centres). Giống như những bánh xe xoay tròn (chakras).
[8]
Ðó là hệ thống tiêu cực (méthode passive négative) của Khoa chiêu hồn
và hệ thống tích cực (méthode active, affirmative) của Thông Thiên Học.
[9] Nghĩa là y sẽ nắm lấy cơ hội để phụng sự hoặc y sẽ bỏ qua cơ hội mà không làm gì cả. (Giải của dịch giả).
[10]
Chữ Pháp “talents” có hai nghĩa : tài năng và nén bạc. Chuyện ngụ ngôn
“Les talents như sau : Một ông chủ khi vắng lâu ngày, có trao cho đầy tớ
mỗi đứa một nén bạc. Kẻ đầy tớ siêng năng thì tìm cách làm cho nén bạc
sanh lợi. Kẻ đầy tớ lười biếng thì cứ giữ nguyên nén bạc. Ðại ý chuyện
này khuyên ta phải làm nảy nở tài năng trời đã phú thác cho ta. (Lời
giải của dịch giả).