"...Thiền phái Trúc Lâm có
ba Thiền phái Trúc Lâm kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loa và Huyền
Quang.
Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12 – đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi.
Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12 – đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi.
Thiền phái Trúc Lâm được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại
Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải
chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba
vị Tổ nói trên, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng,
nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi vì đến thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân
tranh (1600-1700), người ta lại thấy xuất hiện những vị Thiền sư của
Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục Hồ, Viên Khoan Đại Thâm và nổi bật
nhất là Thiền sư Minh Châu Hương Hải (theo Nguyễn Hiền Đức).
Sau một thời gian ẩn dật, dòng Thiền này sản sinh ra một vị Thiền
sư xuất sắc là Hương Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong
thế kỷ thứ 17-18, thiền phái này được hoà nhập vào tông Lâm Tế từ Trung
Hoa và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng...."
Khi mới xuất hiện, những sáng tác của Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã
gây nên một cuộc tranh luận văn học sôi nổi. Văn phong và cách sáng tác
từ trực giác của Tác giả rất lôi cuốn người đọc.
Sư Huyền Quang, vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm trước khi xuất
gia là một Trạng nguyên, đã từng từ hôn công chúa Liễu Sinh. Vua Trần
Anh Tông nói với quần thần:
- Người
ta sống ở trong trời đất, mang khí âm, ôm khí dương, ăn thích vị ngon,
mặc thích màu đẹp, đều có tình dục như thế. Đấy là lẽ thường. Chúng ta
ngăn hãm một phía ham muốn ấy lại chính là để dốc lòng phụng đạo, đó là
đành đi một lẽ. Riêng Huyền Quang sắc sắc không không, vậy đó là người
ngăn hãm lòng dục hay là không có lòng dục?
Mạc Đĩnh Chi nói:
- Vẽ hổ chỉ vẽ được da, không vẽ được xương. Biết người chỉ biết mặt, ít biết được lòng. Vậy xin cho người thử xem.
Vua Trần Anh Tông nghe lời Mạc Đĩnh Chi, cử một nữ gián điệp xuân
sắc mê hồn là nàng Thị Điểm Bích tìm đến Yên Tử để thử Huyền Quang theo
kế giăng lưới bắt chim...
Huyền Quang, tên thật là gì không rõ, trong sử ghi là Lý Đạo Tái.
Ông người làng Vạn Tải, huyện Gia Bình, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Từ nhỏ nổi tiếng thần đồng, nghe một hiểu
mười, nên người ta mới mệnh danh là Đạo Tái. Có sách chép Lý Đạo Tái đỗ
Trạng nguyên khoa Nhâm Tý (1252) đời vua Trần Thánh Tông, lúc này mới 23
tuổi. Trong dân gian kể rằng nhà Lý Đạo Tái nghèo, không có đất cắm
dùi. Khi còn hàn vi, Lý Đạo Tái từng hứa hôn với một cô gái nhưng về sau
bị từ hôn, cô gái đi lấy một người nhà giàu. Cuộc nhân duyên lần thứ
hai cũng thế. Chán nản, Lý Đạo Tái chuyên vào mỗi chuyện học hành rồi đỗ
Trạng nguyên. Khi ấy, nhiều người đến manh mối hôn nhân nhưng ông đều
từ chối, kể đến cả công chúa con vua. Nghe đồn Lý Đạo Tái đã từng ngán
ngẩm than rằng:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên!
Lý Đạo Tái theo đường hoạn lộ, nhiều lần đứng ra tiếp sứ thần
Trung Hoa. Về sau, ông được sư Pháp Loa giác ngộ bèn xuất gia tu hành.
Sư Pháp Loa (tức Đồng Kiên Cường) là vị tổ thứ hai môn phái Trúc
Lâm, đã theo vua Trần Nhân Tông khi người xuất gia ở núi Yên Tử. Vua
Trần Nhân Tông, lấy pháp danh là Điểu Ngự trước khi viên tịch đã truyền y
bát lại cho sư Pháp Loa, nay sư Pháp Loa giác ngộ và truyền y bát lại
cho Lý Đạo Tái với pháp danh là Huyền Quang.
Huyền Quang là người có căn tu thế nào? Tại sao Huyền Quang lại trở
thành vị sư tổ thứ ba trong phái Trúc Lâm, một môn phái Phật giáo có ảnh
hưởng rất lớn đến thế giới tâm linh của người Việt Nam?
Bài thơ Cúc hoa của Huyền Quang nói tâm sự của một người tu đạo ở trong núi, ngắm hoa mới sực biết thời gian trôi đi:
Vong thân, vong thế dĩ đô vongTọa cửa tiên nhiên nhất tháp lươngTuế vãn sơn trung vô lịch nhậtCúc hoa khai xứ nhất trùng dương.
Một người quên mình (vong thân), quên đời (vong thế)
ngồi mãi trong rừng sâu không có lịch, không biết năm hết Tết đến, thấy
hoa cúc nở mới đoán là đã đến Tết trùng dương! Vì sao người này lại
ngắm hoa cúc mà không đi ngắm hoa khác?
Chủ nhân dữ vật hồng vô cảnhHoa hướng quần phương xuất nhất đầu(Lòng người và cảnh vật vốn không xung khắcSo sánh với muôn hoa, thì cúc đứng đầu)
Theo ý tứ bài thơ thì thấy Huyền Quang không phải là người không
có thiên vị, không có tình ý riêng! Cũng trong bài thơ Cúc hoa này,
Huyền Quang đã có một nhận xét rất sâu sắc: Nghĩa khí bất đồng nan cẩu
hợp (Nghĩa khí mà khác nhau thì khó mà hòa hợp). Đạo Phật thường
lưu tâm người ta ở hai chữ nhân duyên. Huyền Quang cũng giống mọi người,
không phải là lòng dạ sắt đá gì, không phải là người không hiểu biết về
lẽ nhân duyên. Trong một bài thơ khác nữa tên là Sơn vũ (Nhà trong núi)
tâm tình Huyền Quang phảng phất bâng khuâng:
Thu phong ngọ dạ phật thiềm nhaSơn vũ tiên nhiên chầm lục laDĩ hí thành thiền tâm nhất phiếnCùng thanh tức tức vị thuỳ đa(Đêm khuya, gió thu xao xác ngoài mái hiênNhà trong núi đìu hiu giữa lùm cây xanhTấm lòng tu hành từ lâu đã hóa theo PhậtTiếng dế vì ai mà kêu rầu rĩ mãi?)
Phái Trúc Lâm là phái có nhiều đệ tử tri thức nhất, học thức nhất,
danh giá nhất ở nước ta. Huyền Quang được trao y bát, trở thành sư tổ
của phái này thì căn tu, công lực đại thành của Huyền Quang ắt hẳn xuất
chúng.
Làm sáng tỏ Phật tính là
một mệnh đề cơ bản trong Kinh Niết bàn. Việc vua Trần Anh Tông cho Điểm
Bích đi thử lòng Huyền Quang cũng có thể coi là một công án nhằm làm
sáng tỏ Phật tính ở vị đại sư này vậy.
Ngày xưa, có người băn khoăn về pháp môn Bất nhị
của Phật pháp đã từng thỉnh vấn Đức Phật: Những người phạm tội tà dâm,
giết người, trộm cướp v.v... liệu có mất hết thiện căn Phật tính hay
không? Đức Phật đáp: Thiện căn có hạng thường và hạng vô thường. Phật
tính chẳng thường mà cũng chẳng vô thường, cho nên không đứt đoạn, gọi
là pháp Bất nhị. Một hạng thiện, một hạng bất thiện, gọi là pháp Bất nhị. Uẩn và Giới kẻ phàm cho là hai nhưng bậc trí giả thì hiểu rõ tính của nó không phải là hai. Tính không hai đó (Vô nhị chi tính) tức là Phật tính.
Theo cách giải thích trên có thể hiểu rằng người ngu kẻ trí Phật tính
vốn không khác nhau, chỉ vì mê và tỉnh không giống nhau nên mới có kẻ
ngu và trí mà thôi.
Trở lại việc vua Trần Anh Tông cho Điểm Bích đến thử Huyền Quang ở núi Yên Tử thì tưởng như mưu giăng lưới bắt chim là
sâu sắc nhưng thực lại là mê vậy. Chuyện rằng Điểm Bích đã dùng nhiều
kế nhưng không lay chuyển được Huyền Quang nên nàng bèn về tâu dối vua.
Sách Tam tổ thực lục ghi lại lời tâu ấy như sau:
... Tôi vâng chiếu chỉ đi thử thiền sư Huyền Quang. Đến chùa Vân Yên,
vào ở nhờ một bà vãi già, tự xưng là con gái nhà dân, xin được theo học
đạo tôn sư. Bà vãi già thường sai tôi dâng nước chè lên cho sư. Trải qua
hơn một tháng, sư không hề liếc nhìn, hỏi han gì tôi cả. Một hôm nửa
đêm, sư lên nhà tụng kinh, đến canh ba, sư và đám tăng ni ai nấy đều về
phòng mình mà ngủ. Tôi bèn đến bên cạnh phòng của thiền sư để nghe xem
động tĩnh thế nào thì thấy sư ngâm lời kệ rằng:
Vằng vặc giăng mai ánh nướcHiu hiu gió trúc khua sênhNgười vừa tươi tốt, cảnh vừa lạMâu Thích ca nào chẳng hữu tình.
Sư ngâm đi ngâm lại mãi, tôi bèn vào phòng tăng, từ biệt sư để về
thăm cha mẹ, để sang năm sẽ quay lại học đạo. Sư bèn giữ tôi lại ngủ một
đêm, rồi cho tôi một dật vàng.
Nhà vua nghe lời Điểm Bích tâu, lòng bực bội không vui. Nghĩ lại, nhà vua tự trách mình:
- Sự việc nếu quả như lời Điểm Bích thì đúng là ta giăng lưới ở tổ bắt
chim, chim nào mà không bị hại! Nếu sự việc mà không như thế thì hóa ra
ta đã làm hại quốc sư, đẩy ông ta vào mối ngờ vực oan ức! Nếu hiểu rõ
pháp Bất nhị của nhà Phật thì việc thử lòng này thật là nhảm quá!
Để sửa lỗi, cũng là để minh oan chiêu tuyết cho Huyền Quang, nhà vua
cho mở hội Vô Già ở kinh thành, triệu Huyền Quang về làm lễ. Nhưng trái
với tục lệ nhà chùa, hôm bước vào chính lễ, nhà vua cho giết bò và lợn,
dọn toàn cỗ mặn.
Huyền Quang bước vào lễ, kêu tên Đức Phật khấn rằng:
- Kẻ đệ tử này có điều gì bất chính, xin chư Phật cho đày xuống A Tì
địa ngục, còn nếu không thì xin cho những cỗ mặn kia hóa thành chay tất
cả.
Huyền Quang khấn xong, bỗng có gió
mạnh nổi lên, trời đất tối sầm. Khi gió tàn, trời sáng, tất cả các mâm
cỗ mặn đều biến thành cỗ chay tinh khiết thơm tho. Nhà vua và mọi người
thấy Huyền Quang làm phép thông cảm được với trời đất thì đều vô cùng
cảm phục, quỳ xuống lạy tạ.
Huyền Quang
viên tịch ở tuổi 82. Cho đến ngày nay, dân gian nhiều nơi vẫn kể lại
những truyền thuyết trong cuộc đời ông. Có người nói rằng các món cỗ
chay làm giống cỗ thường trong ngày lễ tết ở các nhà chùa là từ sự tích
này. Nhân ngày Xuân, đọc lại sách Phật ngẫm ra nhiều điều. Trong chúng
sinh, căn tính người ta có người sắc bén có người cùn nhụt. Người mê
chấp thì phải tu thân, học tập; còn người giác ngộ có thể đột nhiên ứng
hợp; chung quy lại để nhằm tự mình nhận thức được bản thân mình, tự mình
chứng kiến được bản thân mình, sống hòa hợp cùng tự nhiên với tâm hồn
trong sáng.
Phía trước là cuộc sống vẫy gọi! Đấy là tương lai với đầy mơ ước cho tất cả mọi người!