Tướng đôi mắt quan trọng,
trước hết
vì nó nói để biểu lộ thần khí. Thần khí linh khí vốn trừu tượng không thành hình vật, nó chỉ dựa vào ngũ quan lục phủ để hiện lên thôi. Chỗ chứa thần khí nhiều nhất là đôi mắt.
vì nó nói để biểu lộ thần khí. Thần khí linh khí vốn trừu tượng không thành hình vật, nó chỉ dựa vào ngũ quan lục phủ để hiện lên thôi. Chỗ chứa thần khí nhiều nhất là đôi mắt.
Dục sát thần khí tiên quan mục tinh.
Thần khí không bao giờ thoát ly hình hài dù chỉ trong giây phút.
Thần khí đi mất, sinh mệnh không còn. Thần khí thực tế là lực lượng của
sinh mệnh. Người thông minh, hoạt bát nhờ thần khí đầy đủ. Thần khí tồn
tại trong chỗ sâu thẳm của tâm linh với phẩm chất tốt xấu, cao hạ, chân
giả. Phải xem xét cực tinh tế mới thấy được. Chớ nên lầm với hình thái
nổi lềnh phềnh bên ngoài. Gặp ai vui vui tươi cười đã vội bảo người ấy
thần khí tốt là nhảm. Thần khí đủ không phải là vẻ đắc ý nhất thời. Vẻ
đắc ý bất quá chỉ là thần khí giả.
Sách “Băng Giám” có câu: “Nhất thân tinh thần cụ hồ lưỡng mục” (Tất cả tinh thần của một thân hiện lên đôi mắt).
Xem thần khí không nơi nào bằng xem đôi mắt.
Hiền lương trừng triệt,
Hào tuấn tinh anh
Tài năng hơn người cộng với phẩm đức hơn người nên gọi là hiền lương.
Từ lâu nay, hai chữ hiền lương đã bị hiểu lầm là hiền lành chất
phác. Thực ra, danh từ hiền lương có từ thời Hán Đường, với cái nghĩa
như một cột trụ của quốc gia.
Đối với tướng học, hiền lương không thể ngụy trang được vì nó hiện
lên đôi mắt. Mắt người hiền lương chân chính bao giờ cũng trong như nước
mùa thu của hốc đá, trong suốt tới đáy. Sáng trong mà ôn hòa từ tường.
Biết xa hiểu rộng, chí lớn tài cao, không kiêu căng tự thị. Thế gian tìm
ra loại người này thật hiếm.
Vậy cứ theo khôn ngoan cổ nhân. Thủ pháp hồ thượng, tất đắc hồ trung. Đòi hỏi ở mức độ tối thượng nhưng chấp nhận ở mức vừa vừa.
Triết gia Hoài Nam Tử nói:
- Tài trí quá vạn người là Anh, quá ngàn người là Tuấn, quá trăm người gọi là Hào, quá mười người gọi là Kiệt.
Một quốc gia xã hội, một tập thể cứ mong có lấy nhiều bậc hào tuấn và kiệt đã là tốt rồi.
Nhà thơ Lý Bạch, thân tuy chưa đầy thất xích (chừng 1th70) nhưng tâm hùng vạn phu.
Nói hào tuấn hoàn toàn, nói về bản tính chứ không hạn hẹp trong phát triển sự nghiệp.
Làm thơ hay xưng bá trong văn đàn gọi là thi hào, văn hào.
Giỏi võ, xếp bút nghiên theo nghiệp đao cung. Thời giặc giã lập công nghiệp hiển hách gọi là anh hào.
Phàm đã đến bậc hào tuấn, hào kiệt, anh hào bao giờ cũng có đôi mắt sáng đẹp và một dáng dấp anh hùng với tấm lòng quảng đại.
Tướng mắt “Cửu Quyết” dạy rằng:
- Nhìn xa, trí tuệ.
- Nhìn xuống, âm độc.
- Nhìn bình thản, lành tốt.
- Nhìn chăm chăm, ghen ghét.
- Nhìn lướt đi, gian.
- Nhìn lờ đờ, ngu.
- Nhìn yếu ớt, mắc cỡ.
- Nhìn điên đảo, phản bội.
- Nhìn liếc ngang, mưu hại.
Phương pháp xem tướng mắt có hai mặt: Mặt tâm lý qua đôi mắt để
đoán cát, hung, họa, phúc. Mặt sinh lý qua đôi mắt để đoán trí tuệ và
sức khỏe, thọ, yểu.
- Lòng trắng tức bạch cầu tối kỵ những tia đỏ. Sách tướng có câu:
Xích mạch quán tinh chủ ác tử
Xích mạch xâm tinh chủ hung tai
Xích mạch nhiễu tinh chủ phá tài ưu hoạn.
(Có tia máu đỏ đâm xuyên qua con ngươi, chết bất đắc kỳ tử, tia đỏ
đâm vào con ngươi gặp hung tai, tia đỏ quấn quýt quanh con ngươi có
chuyện lo buồn, tiền bạc thất tán).
Lòng trắng cũng kỵ xanh xám màu tro, trông đục lờ đờ là mắt của nhiều bệnh tật.
Sách “Tướng Kinh” viết:
- Lòng trắng vẩn đục, nghèo hèn, cô độc, khắc tử, chết bất ngờ.
- Lòng trắng dã mà khô không quang nhuận là loại bạch đinh, suốt đời vất vả không danh phận.
Sách “Thông Chí” có chép chuyện:
Đời Tấn Chiêu Công năm thứ II, vào mùa hè, ông Đan Tử gặp Hàn Tuyên
Tử ở đất Thích. Thấy Đan Tử mắt cứ nhìn xuống mà tiếng nói thì yếu ớt,
ông Thúc Hướng mới bảo rằng: “Đan Tử sắp chết đấy, chỉ nội sớm chiều
thôi”.
Quả nhiên năm ấy Đan Tử chết.
Nhìn đôi mắt người, hễ cứ thấy nét mặt buồn, mắt không muốn nhìn
lên, nhìn ra xa, nhìn thẳng vào sự vật mà lờ đờ nhìn vào đầu mũi, đồng
thời nói chẳng ra hơi, tiếng không nghe xa quá một bước, tức là tâm
huyết và tâm khí đã hư khuyết, tử thần đã uy hiếp sinh mệnh. Tướng này
lấy câu nói của Thúc Hướng làm định lý: “Thị bất đăng tịch, ngôn bất quá
bộ, vô chủ thân chi khí: (nhìn không trên chiếu, nói không quá bước,
cái khí giữ thân đã hết rồi vậy).
Sách “Liệt Quốc Chí” có chép chuyện:
Trí Bá cầm quân Hàn Ngụy đi đánh nước Triệu. Cho khơi nước vào thành Triệu. Triệu chắc phải hàng nay mai.
Bầy tôi của Trí Bá là Hi Tì thấy Hoàn Tử và Khang Tử, nét mặt không
vui nên nói với Trí Bá rằng hai người ấy sắp phản. Trí Bá không tin.
Hôm sau Trí Bá đem lời Hi Tì nói lại cho Hoàn Tử và Khang Tử nghe.
Hai người đi ra, Hi Tì vào mách Trí Bá:
- Tại sao chúa công đem lời tôi nói lại với họ?
- Sao ngươi biết? - Trí Bá hỏi.
Hi Tì đáp:
- Tôi gặp họ ở ngoài cổng, họ trừng trừng nhìn tôi rồi vội bước cho
mau. Như vậy là họ biết trước tôi đoán rõ được tâm lý của họ nên có ý
sợ.
Trí Bá vẫn không tin sai Hi Tì sang làm sứ bên nước Tề.
Về sau, đúng như lời đoán của Hi Tì. Hoàn Tử và Khang Tử tư thông với Triệu Vương làm phản và giết chết Trí Bá.
Thần hãm đoản thọ
Tinh đột cực hình.
Thọ yểu của người đời được quyết định bởi sức vóc của thần khí, và chết êm thấm hay chết phi mệnh thì do khí dung hay hòa.
Thần hãm xin đừng lầm với mục hãm vì mục hãm nói về hình thể con
mắt nằm sâu xuống như kiểu mắt sâu râu rậm. Mắt sâu không liên quan gì
đến thần hãm.
Sức sống cường vượng của một người thế nào có thể nhìn qua đôi mắt,
dù cho người ấy đang ở trong cơn thất bại ê chề, nhưng ánh mắt vẫn
quang thái sáng đẹp thì có thất bại thêm nữa cũng chẳng sao.
Giả như một thanh niên khoẻ mạnh mà nhãn quang co quắp, sức nhìn
yếu nhược thì cái sức mạnh trên thân thể chẳng qua chỉ là sức mạnh giả,
kết quả sớm chiều chết lúc nào không biết.
Xem tướng nhãn thần phải phân chia làm hai loại:
a) Quang thái của trí tuệ.
b) Quang thái của sinh mệnh lực.
Có phân biệt thế mới hiểu tại sao thiên tài thường đoản thọ.
Mắt sáng như sao, quang thái phù động lưu hoạt nhưng càng nhìn lâu
càng yếu đi. Đó là người thông tuệ mà sinh mệnh lực bạc nhược đoản thọ.
Còn quang thái của đôi mắt rồi rào sinh mệnh lực bao giờ cũng hoặc
quang phát ra mạnh lâu nhưng quang thái ấy không giảm đi, hoặc hàm súc
thâm thuý và kiên thực, lúc nào thân thể mệt mỏi, mắt vẫn không mệt mỏi.
Mắt lồi, Sách tướng đặt tên là phong mục (mắt con ong).
Phong mục báo thanh quyết bất thiện chung (Mắt ong tiếng beo nhất định chết hung).
Kiếm ti phong tinh bất đắc hung nhi thả tiện (Mũi nhọn như dao kiếm, mắt ong vừa hung bạo vừa hạ tiện).
Tinh đột như phong mục, chủ hình thương (Mắt lồi như mắt ong chủ về hình thương)
Sách nói vậy, nhưng phải thật am tường tướng pháp, đừng vội cho đôi mắt lồi nào cũng sẽ chết bất đắc kỳ tử.
Nhãn cầu lồi gồm có ba loại:
- Vì cận thị nên thuỷ tinh thể lồi ra.
- Vì nói nhiều và tâm tính quá vui khiến cho một bộ phận thần kinh
chủ về sự nói nằm trong đầu nở nang quá độ đẩy nhãn cầu lồi ra.
- Vì sự vượng thịnh của tính dục làm mọng thuỷ bào doanh dưỡng nhãn cầu khiến cho nhãn cầu phát đạt mà lồi ra.
Sách tướng coi là một thứ đào hoa nhãn.
Loại thứ nhất thuộc bệnh lý không kể.
Loại thứ hai, nếu đem kinh người xưa: “Ngôn đa tất thất”, “hoạ tòng
khẩu xuất” mà nói thì người có tướng mắt này lại thêm ưa rượu chè hay
nhạo báng, chê bai, dèm pha, trên cái lý nhân sinh chắc dễ bị chết đâm,
chết chém bởi chúng nhiều kẻ thù.
Loại thứ ba vì nhan sắc, tham dâm, mẫu đơn hoa hạ tử tố qui dã
phong lưu (Chết dưới cây mẫu đơn, ra ma rồi mà vẫn còn chơi bời).
Người mang tướng này nếu nhục dục quá sức, tham dâm thông gian thì cái chết trên tình trường chẳng bao xa.
Còn tướng mắt lồi không do ba nguyên nhân trên, mới sinh ra đã như
vậy, nó biểu hiện tính tham, hung dữ. Tham lam hung dữ hỏi sao tránh
khỏi bất đắc kỳ tử.
Mắt lồi tối kỵ lộ thần, lộ thần là nhãn quang tán mạn vô lực, tối kỵ đới sát, đới sát là có vẻ hung dữ. Chết yểu hoặc hung tử.
Con ngươi vàng, mắt đỏ lại lồi ra thì vừa tham vừa hung ác, thiếu hẳn trí tuệ, phần lớn bị chết tại pháp trường.
Con ngươi lồi ra, tiếng như thanh la vỡ, sách tướng gọi bằng ”song đới sát” chết trong tù ngục.
Con ngươi lồi ra, màu vàng, cổ dài và răng nhọn thường thường chết vì thắt cổ.
Con ngươi lồi, mắt ưa nhìn xuống, cằm lẹm thường thường chết đuối.
Quỉ mi lông mày thô rậm, mắt lồi bốn phía lòng trắng, chết vì cực lạnh.
Mắt lồi rất kỵ đi kèm theo các tướng: đầu heo, mặt ngựa, mũi nhọn
dao kiếm, cổ heo, cổ dài, tai vểnh, miệng dúm, mặt trắng bờn bợt.
Tà miến giả nhân tao kỳ độc
Si thị giả tự khắc kỳ hình.
Người tâm địa quang minh, ánh mắt bao giờ cũng bình thản chính trực.
Người quen thói liếc ngang, tâm địa rất độc.
Điều này trong đời sống hàng ngày ai cũng biết.
Duy có si thị thì ít người hiểu. Thế nào là si thị?
Si thị là mắt đờ như đem tinh thần đến thế giới khác. Trông thấy
một người bảnh bao mà có đôi mắt đờ đờ, ta nên đoán người ấy thuộc loại
vô dụng kém đường y lộc.
Nhưng nếu gặp một người do vận hạn lưu niên mà đôi mắt hốt nhiên
chuyển biến thành si thị từng lúc từng lúc một thì ta phải đoán người ấy
có thể bị điên hoặc sắp chết.
Dâm nhãn thần đãng
Gian tâm nội manh.
Dâm nhãn còn có tên sắc nhãn và đào hoa nhãn. Đặc điểm của dâm nhãn là nhãn quang như nước chảy rất quyến rũ đối với dị phái.
Sách Tây Sương Ký tả dâm nhãn:
- Khoé thu ba của nàng vừa chuyển đã có thể làm cho người đá phải động tình.
Tình dục vốn là bản năng của con người ai cũng có. Tuy nhiên nhu
cầu ít nhiều khác nhau nên mới phải phân biệt dâm hay không dâm.
Dâm nhãn là con mắt thật ướt nếu đi đôi với thần đãng là tính ham vui thích của lạ dĩ nhiên gian tâm nảy sinh.
Mắt ngủ thần đục và như ngủ
Mắt sợ thần khiếp và như sợ.
Thần là vật giống ngọn lửa trong đèn. Nếu đèn mờ mờ tức là đèn sắp hết dầu.
Tinh thần con người lấy đôi mắt làm cửa ngõ, nhãn thần vẩn đục có
vẻ ngủ mà không phải ngủ, mệt mỏi lờ đờ, một triệu chứng xấu báo đèn sắp
hết dầu, ngọn lửa sinh mạng sắp tắt.
Khí nhược khí hư làm cho thần khiếp, hoàn toàn thiếu tự tin, đồng
thời mang bệnh thiếu máu trong tâm tạng. Cái gì cũng lo, cái gì cũng sợ.
Sách “Băng Giám” có câu: “Mắt sợ như nai hoẵng”.
Ai có đôi mắt kinh sợ của nai hoẵng, không thể cáng đáng công việc
hệ trọng. Nếu đôi mắt ấy mỗi ngày trở nên kinh hoàng tất sẽ bạo tử.
Bệnh nhãn và tuý nhãn là gì?
Xem tướng cho người, việc trước nhất là xem tướng mắt. Một người dù
cho thân thể khôi ngô, nhưng đôi mắt tinh thần điện quang bất túc thì
cũng coi là đồ bỏ.
Linh Đơn Bí Quyết nói:
Như bệnh như tuý giai thần nhược dã
Như bệnh tổn thọ như tuý hoành vong.
Mắt như người bệnh, mắt như say rượu, đều bởi thần nhược mà nên.
Như người bệnh thì tổn thọ, như say thì chết bất kỳ.
Dân giang hồ phiêu bạt có kinh nghiệm, hễ ai không bệnh mà người
trông có vẻ bệnh rồi sẽ bệnh và người như thế lúc đã bệnh thì rất khó
chữa.
Sách “Qui Giám” nói:
“Đang nói chưa hết đã cúi đầu ngó đất, chắc chắn trong tạng phủ có bệnh”.
Ngoài đời ta vẫn gặp những người có cặp mắt say sưa như vừa uống
rượu. Loại người này rất lười, chỉ thích ăn không thích làm, tham dâm
bần tiện thô tục. Loại người này tuy có đôi chút thông minh nhưng thông
minh để lừa dối, làm thoả mãn tính lười thôi.
Trong các sòng bạc dễ nhìn thấy người tuý nhãn.
Mắt trông cao rộng có oai, danh dương tứ hải.
Phải nhận rằng có người ta gặp mới chỉ đối diện với nhãn quang của họ, ta đã cảm thấy e dè nể sợ. Thế là có oai.
Oai phải đi với đức mới thật là chân uy. Nếu có oai nẩy ra từ quyền
thế và khủng bố thì cái máy điện chuyên tra tấn còn oai hơn.
Mắt trông cao rộng ý nói khí thế nghiêm túc của đôi mắt khiến cho kẻ đối diện yếu đi trước nhãn quang cương cường chính trực.
Cổ nhân chia ra 2 loại uy:
a) Hữu đức chi uy.
b) Vô đức chi uy.
là để phân biệt Tà với Chính.
Nhận Thanh với Tục dễ hơn nhận Tà với Chính.
Muốn biện nhận Tà với Chính trước phải xem động tĩnh. Lúc tĩnh như
con trai ngậm hạt ngọc. Lúc động như mầm cây nảy lá. Thế mới là Chính.
Còn lúc Tĩnh như mơ mộng nửa thức nửa ngủ, động như nai hoẵng hãi sợ lơ
láo là Tà.
Đôi mắt đen trắng phân minh, quang hoa tiềm ẩn trong suốt và yên lặng nhìn vững chãi mới là chân uy.
Đôi mắt dữ dội, quang phóng ra sáng quắc chỉ là giả uy đấy.
Kinh nhi bất thuấn, đương đầu với sự sợ hãi mà không chớp mắt vẫn
trầm tĩnh nhận định tỏ tường là người trí tuệ cực cao có thần thức nội
định, tư tưởng mẫn nhuệ, ý chí cương nghị, không bị ngoại vật làm cho
ngoan cố nên không gì có thể làm người ấy sợ.
Cuối đời Tống, quan Khâm Sai Chu Biền phụng mệnh vua đi sang sứ bên nước Kim. Lúc bấy giờ Tống là nước yếu. Kim quốc đang mạnh.
Người nước Kim rất mến phục tài học của Chu Biền nên tìm mọi cách
dụ Chu Biền ở lại nước Kim, phong cho quan cao bổng hậu. Nhưng Chu Biền
tuyệt đối không động tâm, nói dối là mình có bệnh thông manh để từ chối.
Người Kim không tin nên mới nảy sinh ra ý định giết hại Chu Biền.
Một hôm, ngay trước điện vua Kim sai người dùng chuỳ sắt giả đánh
mạnh vào mặt Chu Biền. Thế mà Biền nét mặt vẫn thản nhiên như không, mắt
không hề chớp. Vua Kim rất ngạc nhiên bèn bỏ ý định sát hại Chu Biền,
cho Biền trở về Tống.
Mắt gặp điều kinh hãi ập đến bất ngờ mà không chớp, hoàn toàn do
thiên phú nghĩa là thuộc tướng cách thì định lực mới đến độ tuyệt đỉnh.
Tuy nhiên những người học thôi miên hoặc tu phép “Thần huy tam thanh”
của đạo gia cũng có thể luyện tập thành đôi mắt kinh nhi bất thuấn được.
Tiền tỉ tự hồ câu khúc,
Trí túc kinh doanh.
Tiền tỉ là đầu vành mắt chỗ giáp với sống mũi, nếu nó quặp xuống
như chiếc móc câu, người đó đa mưu túc trí. Vào quân đội thì giỏi quân
cơ. Đi buôn bán dễ thành đại phú.
Nhà danh học về tướng số cổ thời, ông Tư Mã Quý chẳng từng nói:
- Đầu vành mắt quặp móc câu, mắt trong như nước mùa thu, nếu không đại quý cũng đại phú.
Nếu chỉ có “tiền tỉ câu khúc” thôi chưa đủ, phải phối hợp với tinh như thu thuỷ mới hoàn toàn.
Đọc “Đông Chu Liệt Quốc” có đoạn Bình Nguyên Quân xem tướng cho Bạch Khởi bảo với Triệu Vương rằng:
- Bạch Khởi là người đầu nhỏ và nhọn ở trên, đầu vành mắt như móc
câu, con ngươi đen trắng phân minh nhìn lâu không chuyển. Đầu nhỏ và
đỉnh đầu nhọn, quả cảm. Vành mắt như móc câu, giỏi mưu trí; Đồng tử đen
trắng phân minh, trông rõ sự việc. Nhìn lâu không chuyển, có chí mạnh.
Ta không nên tranh với người đó, nên nấn ná đợi thời cơ.
Quả đúng như lời Bình Nguyên Quân, Tần Chiêu Tương Vương từ khi trọng dụng Bạch Khởi đánh đông dẹp bắc hạ hơn 70 thành.
Tỉ tự khúc câu cũng là tướng Phạm Lãi thờ vua Việt bầy mưu diệt
Ngô. Để tránh hoạ được chim bẻ ná, Lãi trốn đi đổi tên thành Di Tử Bì
làm nghề lái buôn giàu đến ức vạn. Tử Hướng gặp Đào Chu Công nói với bạn
hữu rằng: “Đúng là Phạm Lãi mắt trong như thu thuỷ, vành mắt quặp như
móc câu”.
Hậu vĩ hữu như đao tài.
Văn tư bác nhã.
Hậu vĩ là cuối vành mắt thật sắc như dao cắt, dễ nổi tiếng về đường văn chương.
Mắt dài mắt sáng, vành đuôi mắt sắc đa số là mắt của những nghệ sĩ
danh nhạc, hoạ, văn, kịch. Có thể lấy mắt tài tử chiếu bóng Lý Lệ Hoa
làm mẫu mực.
NHĨ TƯỚNG
Tai liên quan mật thiết tới nội tạng tâm và thận. Không biết căn cứ
vào đâu mà cổ nhân nói rằng con người khi mới thành hình, cái mũi có
trước nhất cho nên mới có danh từ tị tổ. Còn cái tai, ra đời sau, chót
cho nên gọi là nhĩ tôn.
Tướng học đặt Tai vào bộ ngũ quan kêu bằng Thái Thính quan.
Tai bên trái thuộc hành Kim, tai bên phải thuộc hành Mộc. Vì thuộc Kim nên có màu trắng sáng, vì thuộc Mộc nên cần cứng cáp.
Tai cũng ở trong bộ Tứ độc ví như con sông. Vì là sông nên cần có bờ thành, luân quách, vành tai phải cho phân minh.
Xem tướng Tai đòi hỏi cả Hình lẫn Sắc.
Quan kỳ hình trạng nhan sắc
Kiến hồ hưu cữu vinh nhục
Về hình trạng tai đầy đặn, áp vào đầu tượng trưng cho giàu có. Luân
quách phân minh, ẩn cốt bên dưới, tai vuông lớn tượng trưng cho sang
trọng. Nếu luân quách quăn, lộn, tai ngắn và nhọn, sứt lệch, thấp, tướng
nghèo hèn.
Thuỳ châu triều hải
Tất diên toán nhi dư tài.
Thuỳ châu là dái tai, hướng hơi chếch về phía miệng là triều hải.
Như trên đã nói, tai thuộc vận thiếu niên. Có tai đẹp chủ vận thiếu niên
tốt. Tai dầy mập dễ giàu. Đa số nhà doanh thương cự phú đều có tướng
thuỳ châu triều hải.
Uyển nguyệt quán luân
Chung triều vương nhi chấp ngọc
Vành tai vòng như vầng trăng, bẩm chất thông minh, học hành được.
Người có vành tai uyển nguyệt thường gặp may mắn trong sự nghiệp quan
quyền.
Kỳ bạc như chỉ hề bần bảo tử
Kỳ kiên như mộc hề lão bất khốc
Nghĩa là: Tai mỏng như tờ giấy nghèo chết sớm
Tai cứng như gỗ ít gặp hoạ.
Tai mỏng bởi tại tiên thiên bất túc, báo hiệu hoàn cảnh về sau khốn cùng.
Tai cứng nhờ cái xương đằng sau tai tốt chứng tỏ khí lực tiên thiên khoẻ mạnh và để lúc già nua không mất sức, ốm đau bệnh tật.
Lão bất khốc là nghĩa đó.
Tai trắng hơn mặt danh vang thiên hạ.
Nhà văn Âu Dương Tu thường kể, thuở nhỏ có nhà sư xem tướng cho ông nói: “Nhĩ bạch ư diện danh mãn thiên hạ”.
Tai sáng tinh khiết, con người chân thực trung kiên.
Danh thần Ngụy Trưng đời Đường Thái Tôn, tuy diện mạo tầm thường,
duy chỉ có hai tai trắng tinh khiết. Ông được vua Đường Thái Tôn nể nhất
chỉ vì ông dám chính trực can ngăn vua.
Tai không cứ to nhỏ. Điều quan hệ là dày dặn, cứng cáp, có vành tai
trong, vành tai ngoài (luân quách) đẹp đẽ, có thuỳ châu (dái tai).
Tai to mà không luân quách, thuỳ châu, càng to càng vô giá trị.
Danh từ trư nhĩ không có nghĩa hình thù nó giống hệt tai heo đâu,
trên đời chẳng ai mang cái tai như thế. Trư nhĩ là chỉ đôi tai to lớn
nhưng vô luân quách, thuỳ châu.
Tướng trư nhĩ rất lười và ngu, lại tham tiền, tham sắc, thích rượu thịt.
Còn tai chuột (thử nhĩ) thì hình thù nhọn mỏng cũng vô luân quách
là tướng chỉ biết thủ lợi cho riêng mình, ưa làm hại cho người khác.
Tướng của bọn ăn cắp, ăn trộm.
Người nào tai khỉ hết sức gian trá, quỉ quyệt. Tai khỉ hình thù ra sao?
Bạch Vân Tử nói: “Hàm quắt, tai nhọn ưa dùng quỉ kế” (Tiêm nhĩ, súc tư thiên ban quỷ kế).
Chọn bạn, định cộng tác làm việc chớ có gần kẻ tai khỉ.
Tai khỉ còn quỷ quyệt hơn những người tướng:
- Lấy lưỡi liếm môi như rắn,
- Mắt ba góc,
- Mắt to mắt nhỏ,
- Mũi mỏ chim,
- Mũi đỏ lấm tấm
Bạc như hướng tiền, mãi tận điền viên.
Phản nhi đoả hậu cư vô thất ốc.
Hai tai mỏng vểnh về đằng trước, sách tướng gọi là Chiêu phong nhĩ
(tai đón gió) chủ phá bại. Nếu nó lại mỏng lệch thì bán sạch nhà cửa
ruộng vườn.
Tướng bạt nhĩ lộn ra phía sau (đảo hậu), suốt đời không mua nổi cái nhà.
Dù con nhà gia thế, nếu có hai loại tai đó rồi cũng thất cơ lỡ vận.
Hôn ám nan nghị hồ đăng đệ
Tiêu khô lữ thán kỳ không trục.
Tai trông tối thui, triệu chứng của tinh thần suy nhược, tất nhiên học bất thành, không thể đỗ đạt.
Nếu tai vàng héo khô khốc, tính mạng sắp nguy.
Sách “Ma Y Thần Tướng” nói:
Nhĩ luân tiêu hắc, tử tại nhãn tiền (Vành tai khô đen, chết ở trước mắt).
Thọ việt mi hề quý phún huyết.
Thông minh nhuận hề, phú điếm nhục.
Hình tai dài và lớn, bên trên cao hơn lông mày, bên dưới ngang với
góc miệng là tướng thọ. Cả đời ít khi ốm đau dù gặp nghịch cảnh cũng
chẳng bao giờ buồn phiền.
Hai tai ửng hồng như phun son đại quý cách. Hồng phải đi đôi với
nhuận mơn mởn như cánh hoa hồng buổi sớm. Nếu đỏ mà lại khô thì là tên
hung ác, đồ tể, côn đồ.
Tai màu ửng hồng minh nhuận biểu hiện tâm thần cường tráng. Nhĩ
thông thường đi đôi với mục minh. Sách “Linh Sơn Bí quyết” có câu: “Nhĩ
môn khoan đại nhuận trạch minh huỳnh châu viên quách hậu, tài trí siêu
quần”(cửa tai rộng rãi, to, sắc trạch nhuận sáng, dái tai tròn vành tai
dầy, tài giỏi hơn người).
Tai đầy áp sát vào đầu, đứng trước mặt không trông thấy tai, đại phú.
Sách “Linh Sơn Bí quyết” nói:
Vành tai mập dày, dán sát vào đầu
Hình tai tròn trịa, tai chắc khoẻ
Giầu ngang với Thạch Sùng
Luân, yểm sinh hồ hắc tử.
Trí túc kinh bang.
Tai bên trái, nơi vành tai trong hoặc chỗ khoan tai (giữa vành
ngoài và vành trong) có nốt ruồi, người tài giỏi khả dĩ kinh bang tế
thế.
Nếu tai bên phải có nốt ruồi như thế, người hiếu đễ, tốt bụng.
TỊ TƯỚNG
(Tướng mũi)
Mũi thuộc bộ Ngũ Nhạc, Tứ Độc còn gọi là Thiên Trụ, thông với phổi
thuộc hành Thổ. Vận hạn lưu niên của mũi kể từ 41 đến 51 tuổi. Riêng bản
thân cái mũi có tám bộ vị:
- Cuối mũi dưới ấn đường là sơn căn.
Dưới sơn căn trên sống mũi là niên thọ hay tật ách cung.
Dưới niên thọ là chuẩn đầu (đầu mũi)
Hai lỗ mũi bên trái gọi gián đài, bên phải gọi đình uý.
Hai bên sơn căn giáp mặt bên trái gọi tinh xá, bên phải gọi quang điện.
Thông thường xem tướng mũi cần chú ý vào sơn căn nên đầy đặn đừng
hãm khuyết, niên thọ nên cao phẳng, sáng và chuẩn đầu nên nở nang.
Lương quý hồ phong long quán ngách
Sắc quý hồ vinh quang dâng mục.
Sách “Linh Sơn Bí Quyết” nói:
Sống mũi cao, chuẩn đầu nở nang đầy đặn, mũi thẳng như đốt trúc,
mũi đọng như trái mật, suốt đời không mắc tai hoạ, hưởng phú quý lâu
bền.
Cao, nở nang mới chỉ về phần hình chưa có sắc khí cho nên phải thêm câu: vinh quang dâng mục, thế mới được.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, luôn luôn phải nhớ nguyên tắc phối hợp.
Sống mũi cao là thọ, nhưng nếu mắt vô thần thì cũng vẫn yểu mệnh.
Sống mũi phục tê lên đến ấn đường, nhưng lông mày thô và mắt ác thì
vẫn lao bác khổ sở. Mũi huyền đởm, mũi đốt tre vốn là tướng đại phú
nhưng nếu miệng dẩu dúm như thổi lửa thì hậu vận xác xơ.
Lỗ mũi nhỏ hay chấp nhất.
Đầu mũi hạ nhọn thấp xuống môi, cô độc.
Mũi thông với phổi. Lỗ mũi lớn dễ thở khiến cho thân thể khoẻ mạnh.
Lỗ mũi nhỏ khó thở dễ trở nên bực tức chấp nhặt. Quá mức nhỏ là người
tiểu khí thiếu khoáng đạt hay sợ đầu sợ đuôi, suy đi tính lại không dám
mạnh dạn cáng đáng đại sự. Đầu mũi hạ thấp xuống gần môi, hai bên cánh
mũi (gián đài đình uý) áp hại, tính tình cô độc, thường có những ý thích
dị kỳ như đồng ái (homosexuel) chẳng hạn. Gia đình chẳng mấy khi yên
ấm.
Lưỡng khổng triều thiên.
Hai lỗ mũi ngưỡng lên trời, tức mũi hếch, tất nhiên gia tài khánh tận. Trong nhà không bao giờ có của dư.
Hẳn xưa kia thầy Nhan Hồi phải có tướng lỗ mũi này nên mới sống bằng lẵng cơm bầu nước.
Tị nhược lương đê phi bần tắc yểu.
Mũi yếu, sống mũi thấp chẳng nghèo cũng chết non.
Có người hỏi bây giờ khoa thẩm mỹ giải phẫu thừa khả năng xoá bỏ
cái mũi yếu và sống mũi thấp. Vậy cứ sửa mũi là hết nghèo, hết yểu hay
sao?
Xin trả lời. Tướng con người sở dĩ sống mũi thấp là vì cốt tiên
thiên hư. Mũi yếu là vì thần chất bạc nhược. Nay khoa giải phẫu thẩm mỹ
có thể đệm một miếng nhựa cho mũi cao lên, bơm chất hoá học cho mũi nở
ra nhưng nhất định không thể chữa được cốt khí hư hoại tiên thiên và
thần chất bạc nhược, cho nên mệnh vẫn còn đó không thay đổi.
Còn như làm mũi cao lên liệu đánh lừa nổi người xem tướng không?
Không lừa nổi. Bởi vì như đã nói, xem tướng phải phối hợp với các
bộ vị. Áp dụng tài tình nguyên tắc phối hợp thì hỏi làm sao một cái mũi
làm giả có thể đóng chung với các bộ vị thật mà không lộ tung tích. Trái
lại khoa giải phẫu thẩm mỹ thường phá hoại tướng cách nhiều hơn là làm
lợi cho tướng cách. Không kể những trường hợp nhựa và hoá chất gây tật
bệnh vì trường hợp này thuộc y khoa chứ không thuộc tướng học. Còn có
nhiều trường hợp chất lạ cấy vào trong cơ thể gây thành chướng ngại cho
khí chất thiên nhiên. Lẽ ra đến vận ấy thì sắc tốt nhưng ngoại chất đã
phá hoại những tuyến đùn khí sắc, thành thử tốt hoá ra xấu.
Đại nhi trệ giả vi cổ lữ.
Tiểu nhi hiệp giả tác đồng bộc.
Cái mũi không phải càng tròn càng to càng tốt. Nó phải phối xứng
với các bộ vị khác. Vì cái mũi to mà trệ nên có biết bao nhiêu người
công không thành danh chẳng toại.
Thế nào là trệ?
Mũi thuộc bộ Tứ Độc, sông ngòi suối rạch cần lưu thông, không lưu thông là trệ.
Sơn căn khuyết hãm, nằm dí xuống cản trở lưu thông.
Chuẩn đầu phá khuyết cản trở lưu thông.
Sống mũi gãy cản trở lưu thông.
Mũi lệch cản trở lưu thông.
Khí sắc của mũi lì lì không sáng sủa cản trở lưu thông.
Ấn đường quá hẹp cản trở lưu thông.
Nhân trung nông hẹp cản trở lưu thông.
Dù cho mũi to cũng vô ích, giỏi lắm làm anh lái buôn hàng chuyến.
Mũi nhỏ mà hẹp là người không bao giờ có ý chí tự cường chỉ thích đi làm tay sai.
Trong lịch sử có một số người mũi nhỏ hẹp mà làm nhất nhị phẩm
triều thần như Lưu Cẩn, Hoà Khôn, Lý Liên Anh. Nhưng thật quái ác, những
người đó đều là hoạn quan thái giám, quan thị.
Hoàn mỹ nghi quan
Phá lộ ưu ngục.
Tướng mũi phải phối hợp với khí thế các bộ vị trên mặt cộng thêm
khí sắc quang nhuận. Nếu được hoàn toàn dễ thành công lớn trên sự nghiệp
chính trị. Nếu không hoàn toàn được khí thế mà kém khí sắc anh hùng vô
dung vũ chi địa.
Mũi phá khuyết bởi vết và nốt ruồi độc hại hoặc lộ gân lộ xương, lộ khổng, thường dễ gặp tai ương oan ngục, khắc thê khắc tử.
Chuẩn đầu tròn nở người trung tín
Pháp lệnh sâu tính tình nghiêm nghị.
Chuẩn đầu là mũi. Sách “Linh Sơn Bí Quyết” có câu:
Phong long viên đại trung tín nhân từ.
Ưng chuỷ kiếm phong, hung ngoạn gian độc.
Đầu mũi tròn nở, tâm tính nhân từ, hiền hậu. Đầu mũi như mỏ chim
ưng hay như mũi dao, âm hiểm gian độc. Những kẻ mũi móc câu chẳng bao
giờ thành tín. Pháp lệnh thuộc bộ vết trên mặt liên hệ mật thiết với
mũi, cần sáng dài.
Pháp lệnh sâu dài cá tính kiên cường, chính trực, dũng cảm, quả quyết.
Hứa phụ dạy rằng: “Pháp lệnh dài, thọ; ngắn, yểu; chạy vào miệng chết đói”.
(Riêng đàn bà hơi khác, pháp lệnh phụ nữ không nên quá sâu, quá sâu tất cơ khổ). (Xin xem phần tướng phụ nữ).
Mũi lép hai bên cánh mũi tóp vào cực bần tiện, ngược hẳn với chuẩn đầu tròn nở.
KHẨU TƯỚNG
(Tướng miệng)
Tục ngữ có câu: “Bệnh tòng khẩu nhập hoạ tòng khẩu xuất”. Bởi thế cái miệng quan hệ đến vận mạng nhân sinh nhiều lắm.
Sách lại nói: “Ngôn vi tâm thanh”, lời nói là tiếng của con tim.
Một lời có thể dựng nước, có thể làm mất nước, tạo hoạ tác phúc.
Vì chính trực quá nên nói lanh chanh, có người nói quá sự thật, có
người đắc chí nên nói bậy, nói láo, có người chuyên đi nói xấu.
Tất cả là con đường chiêu hoạ.
Có người suốt đời hưởng bổng lộc triều đình, có người sống nhờ tiền
cha của mẹ, có người quanh năm ngày tháng tràn trề miếng ngon thức béo,
có người cả đời chẳng có lấy bữa no, có người bao nhiêu tiền ăn hết bấy
nhiêu, có người bóp mồm bóp miệng.
Tất cả đều do tướng miệng mà ra.
Đoạn hậu quả từ giả miễn hồ nhục.
Phỉ báng đa ngôn tất chiêu kỳ hoạ.
Miệng người ta là cửa ngõ của tâm sự.
Dịch hệ từ viết:
- Kẻ sắp làm phản lời nói thẹn thùng.
- Kẻ lòng nghi hoặc lời nói không gọn ghẽ.
- Kẻ tốt bụng ít nói.
- Kẻ hấp tấp nói nhiều.
- Kẻ thất tiết hay nói liều.
- Kẻ sắp vu khống thường nói ngọt ngào.
Sách “Tướng Kinh” dạy rằng:
Hoạ phúc gốc ở trong lòng, vinh nhục do từ miệng lưỡi.
Đoan trang phúc hậu, không nói lung tung là người có khẩu đức. Ưa chửi bới, phá phách gọi là khẩu tặc.
Nay nói thế này mai nói thế khác đúng phường xảo trá bất công.
Vừa nói nhỏ vừa cúi đầu chính kẻ gian tham âm hiểm.
Nói oang oang mặt đỏ dừ, anh hùng nhưng hữu dũng vô mưu.
Lúc nào cũng tỏ ra không sợ chết trên cửa miệng, lúc nào cũng muốn
nói rằng mình là kẻ trung tín, lâm sự là biến đổi phản trắc ngay.
Thích nói lời khinh bạc chua chát thường đoản thọ, khốn cùng hoặc cô độc. Thông minh như vậy chẳng bằng ngu si an lành.
Ưa tranh luận, hiếu thắng với cãi cọ, vận trình khó thông.
Quá kiêu ngạo chỉ khoe hay, khoe giỏi, sự nghiệp bắt đầu ngừng không tiến thêm được nữa.
Suốt ngày ngồi chê bai nói xấu, tính mệnh luôn gặp nguy hiểm.
Cái gì cũng cười, cái gì cũng chửi vô mục đích, không xem trước xét sau, cả đời chẳng thành việc.
Phì mã khinh cừu do phương thành tứ vực.
Xuất tướng nhập tướng, cái đại dung hồ nhất quyền.
Cưỡi ngựa đẹp, mặc áo lông cừu biểu tượng của phú quý, đồng thời
cũng là ý vị nho nhã anh hào. Loại trọc phú có thể cưỡi ngựa mặc áo lông
cừu nhưng không thể anh hào nho nhã. Được vậy nhờ ở cái miệng phương
thành tứ vực. Miệng đã vuông vắn, nhân trung lại dài sâu, cằm chắc chắn,
hai bên pháp lệnh oai nghiêm mới gọi là phương thành.
Người nào nuốt nổi nắm tay há ra thật lớn, thu lại gọn ghẽ. Tuy
nhiên không phải cho lọt quả đấm vào miệng mà tự cho mình xuất tướng
nhập tướng. Nếu các bộ vị khác bất thành thì cái miệng rộng ấy bất quá
chỉ làm anh thổi ống loa thôi.
Môi phải dầy. Ăn nói đĩnh đạc.
Đây là tướng tốt của miệng.
Tục ngữ có câu: “Môi hở răng lạnh”.
Môi là cửa ngõ của miệng lưỡi. Môi xấu tướng thì miệng làm sao tốt tướng?
Môi đầy đặn, tính người trung lương trí tuệ. Đầy đặn chớ đừng phù thũng như hai miếng thịt trâu bò, thô tục ngu si.
Môi quá mỏng lạnh lùng tàn nhẫn, dối trá.
Môi trên môi dưới bằng nhau và phải che kín răng. Không che kín tất
tiền tài phá hao khó dành dụm, dễ chiêu hung sinh phiền não.
Môi rất cần màu hồng nhuận sáng nói lên phẩm cách tốt, tự trọng, tín nghĩa đồng thời cũng là người biết hưởng thụ.
Môi hồng răng trắng thường nói chuyện có duyên nên vợ đẹp mà hiền.
Môi tím, tình tình kiên cường, cuộc đời chìm nổi, sinh hoạt sóng gió.
Môi thâm, gian hiểm, nghèo khổ, nhiều bệnh tật.
Môi trắng bệnh thiếu máu hoặc có bệnh phổi.
Môi phải có vết nếu nhẵn lỳ, số kiếp cô quả.
Môi dưới trề ra nhiều quá, tinh thần phân tán, không tự tin.
Phún huyết dư tư, tự quyết nang nhi bần bạc,
Hàm đan đa nghệ, như suy hoả dĩ hàn toàn.
Phún huyết nghĩa là đỏ như phun máu.
Hàm đan nghĩa là như tô son.
Môi được mầu phún huyết hàm đan vừa thông minh, đa tài, vừa tiền bạc dồi dào.
Nang quát miệng dúm như túi thắt.
Suy hoả miệng chụm như thổi lửa, tất hoàn toàn nghèo khổ.
Dù có sắc môi hồng nhưng hình miệng dúm cũng bỏ.
Hàm thế dục tiểu, khai thế dục khoan.
Cẩu tham mã thoả, thứ sàm, phong đan.
Miệng ngậm lại thì nhỏ, mở ra lại rộng rất tốt, chứng tỏ là người tài năng mà đức độ, biết tiến biết thoái. Nó là cái triết lý.
Anh hùng như thể khúc lươn.
Khi cuộn thì ngắn lúc vươn thì dài.
Miệng nhọn dài ra phía trước là miệng chó, miệng dê, tham lam lợi kỷ.
Miệng môi thật dầy, không có khía môi, mở miệng dãi hay chảy xuống mép, môi luôn luôn động là mã khẩu, bần tiện cơ hàn.
Môi mỏng miệng nhọn, nói lí nhí là thử khẩu (miệng chuột), giảo trá hay nịnh.
Môi mỏng là không có gờ, góc miệng trễ xuống, cằm lẹm, răng lộ ra
ngoài là phong khẩu (miệng ong), tướng cô độc, hình thê hại tử.
Tướng nói khoác, đại ngôn, mười voi không được bát nước sáo, cố tạo
hư thanh để mong thực lợi hoặc vì bất tài mà lại nhiều tự ái, hoặc bởi
nói khoác đã thành tính, thường thấy ở trên mặt những người có cái miệng
rộng hoác, nằm chơ chơ không thu nhỏ lại được, mở hay khép cũng một
hình thù.
Nhân luận đại thống phú có câu:
“Đại ngôn quả tín giả sước lược” là nghĩa vậy.
Như điểu chuỷ giả, cao nhân đa nan cộng sử.
Đồng kiếm đàn giả nghĩa sĩ khả dữ giao quyến.
Như điểu chuỷ nghĩa là như mỏ chim, môi trên rộng đè xuống môi dưới
nhọn ra giống mỏ con chim. Miệng kiểu này thuộc dị tướng. Nếu các bộ vị
khác đẹp tốt thì cái miệng quý bất khả ngôn. Trí tuệ cực cao, kín đáo,
vui giận buồn không lộ ra nét mặt, nhẫn nại vô cùng, quyết đoán, chí lớn
có khả năng vượt sóng gió khốn cùng lập thành công nghiệp vĩ đại. Tuy
nhiên, người có tướng miệng mỏ chim thường tàn nhẫn, tham vọng đặt lên
trên hết, cho nên vong ân bội nghĩa.
Phạm Lãi xem tướng Việt Vương Câu Tiễn nói:
- Người ấy cổ dài, miệng mỏ chim, có thể ở cùng với nhau khi hoạn nạn nhưng không thể ở cùng lúc đắc ý.
Bởi thế, diệt xong Ngô Vương Phù Sai, Phạm Lãi bỏ Việt Câu Tiễn trốn đi tránh khỏi cái hoạ Văn Chủng bị Câu Tiễn giết.
Kiếm đàm là tay kiếm ngăn đôi lưỡi kiếm và cán kiếm. Miệng kiếm đàm
lớn và góc cong lên, ngay ngắn, tướng trung hậu, nghĩa sĩ có thể gửi
tính mạng, sứ mạng của mình cho người ấy mà không sợ bị phản bội.
Dương môn lưỡng sỉ khuyết tắc mệnh kiến.
Hai răng cửa khuyết, vận mạng bất thông.
Người già ngoài sáu mươi hai răng cửa rụng là lẽ đương nhiên.
Trước sáu mươi, răng cửa khuyết là cốt khí hư hoại, khí chất trần trệ là tướng xấu.
Bị tai nạn hai răng cửa gãy là ngẫu nhiên.
Thân hình to lớn, mặt mũi nở nang mà hai răng cửa gẫy vẫn là kẻ tầm thường, vô dụng.
TƯỚNG CỔ, VAI, LƯNG, NGỰC, BỤNG VÀ TAY CHÂN
Người gầy cổ ngắn gặp tai ương.
Người mập cổ gầy tất yểu vong.
Cổ là cái cột để đỡ cho đầu đồng thời là đường liên lạc giữa đầu với thân.
Gầy kỵ cổ rụt. Mập kỵ cổ dài.
Đó là nguyên tắc bất di bất dịch của tướng pháp.
Cổ như cổ bình, cổ vò, bụng lớn, miệng nhỏ nên cổ rụt, nhất định
bần hàn yểu chiết. Bởi vì người như thế, thân thể bạc nhược, tinh thần
uỷ mị gặp đâu hay đó chẳng dám phấn đấu. Nếu có ai cương cường phấn đấu
thì hùng tâm có dư nhưng sức không đủ chưa xuất trận đã chết.
Cổ như cổ ngỗng dài mà cong là tướng hung bạo, kiêu hoàng, lúc đắc chí ưa tàn sát, thế nào về sau cũng chết bất đắc kỳ tử.
Cổ như cổ heo, ngắn và rụt, tham lam ô trọc, hiếu dâm, mặt mũi đáng
ghét, ngôn ngữ lộn xộn, ngày nào mập quá mức ngày ấy tất chết.
Cổ cần tròn đầy dù người gầy ốm cũng vậy, không được lộ gân lộ hầu, không được cong queo. Mập mà lộ hầu, ngày chết rất sớm.
Người nào đang làm quan, lúc ngồi mặt buồn buồn cổ cứ đưa ra đằng trước thì sắp mất chức, vận hạn nặng có thể bị chết chém.
Khoái Thông bảo Hàn Tín, tướng mặt của ngài bất quá phong hầu nhưng tướng lưng của ngài thì quý bất khả ngôn.
Khoái Thông dùng tướng lý để xui Hàn Tín làm phản, tuy nhiên nó
cũng chứng tỏ cái lưng quan trọng đến mức nào đối với đời người.
Lưng quý tướng, phú tướng phải thật đầy và kiên cố, gầy hay mập,
lưng cũng cần rộng rãi, bằng phẳng, chắc khoẻ. Cái lưng mỏng trông èo
uột là người nhu nhược. Cái lưng phong hậu là người dám làm dám chịu.
Lưng có rãnh, lưng còng con tôm, ngu si bỉ tiện.
Lưng lệch lẹo, nhỏ bản thì yểu chiết hoặc tuyệt tự giống như gốc cây mục không thể ra trái.
Sách “Linh Sơn Bí Quyết” có câu:
- Yêu viên bối hậu uy chấn cửu châu, phú quý lưỡng toàn nhi tôn đa phúc (Eo tròn, lưng đầy phú quý toàn con cháu phúc lộc).
Lưng thẳng dài, to lớn, đầy đặn như hổ ngồi có tài giúp vua.
Lưng thật rộng gồ lên như rùa nổi trên mặt nước gọi là qui bối thuộc loại phúc tướng.
Cánh, tay tướng học chia làm hai bộ phận:
Từ vai đến khuỷu là long cốt.
Từ khuỷu đến cổ tay là hổ cốt.
Trên nguyên tắc thì long phải nuốt hổ chớ để hổ nuốt long.
Long to và dài hơn hổ mới quý quyền.
Hổ to và dài hơn long, vất vả lao động.
Vai chim ưng so lên gần tai, người chắc nịch (Xin chớ lầm với vai
mấy ông nghiện thuốc phiện) dĩ nhiên thuộc loại người gầy xương lớn, lúc
gặp thời sự nghiệp rất lớn. Sơ vận thường túng quẫn, một khi đã vỗ cánh
thì bay lên đến tận từng mây, phát như lôi nhưng lại chóng tàn.
Diêu kiên giả đằng thượng tất tốc
Khủng bất đa thời.
Đó là tướng Mã Chu đời nhà Đường do Viên Thiên Chính phê.
Nếu vai so mà không thuộc cốt cách diên kiên, đầu lại rụt là tiện tướng.
Vai bằng bặn là vai có tướng tốt.
Vai xuôi như vai lọ, thân thể bạc nhược.
Vai lệch vất vả.
Sách “Linh Sơn Bí quyết” viết:
- Con tim là chỗ ở của thần.
Lá gan là chỗ của hồn.
Lá lách (tì) là chỗ ở của ý chí.
Lá phổi là chỗ ở của trí tuệ.
Tất cả đều nằm trong ngực, bụng, tài hoa khí phách đều nằm đấy.
Ngực tối kỵ gồ nhọn như ức con gà, lười, hung dữ, hiếu sắc tham dâm.
Ngực nở nang, phong mãn, lồng ngực rộng rãi bằng phẳng chứng tỏ đảm thức khí độ lớn. Nếu óp ngắn bần tiện.
Bụng ví như cái lò nung nấu biến chế đồ ăn nuôi thân thể gồm ruột, dạ dày.
Bụng tốt tướng phải tròn to, chắc xệ xuống phía dưới trông thanh
khiết. Nếu bụng to phía trên gọi là cẩu phúc (bụng chó) nghèo hèn, ngu
ngốc.
Hứa Phụ dạy rằng:
- Bụng nhỏ mà xệ xuống đại phú. (Phúc tiểu nhi hạ, đại phú).
Bụng to mà xệ xuống danh vang thiên hạ. (Đại phúc thuỳ hạ danh biến thiên hạ).
Bụng lớn như đàn bà chửa tiếng tăm lừng lẫy. (Phúc như bão nhi, vạn quốc danh đề).
Bụng như bụng chim sẻ, vô gia cư. (Phúc như tước phúc bần tiện vô ốc).
Xem tướng bụng cần lưu ý mấy điểm tròn xệ, chắc.
Nếu bụng bự núng nính nhiều mỡ hơn thịt, nhiều thịt hơn xương cốt thì lại là tướng bồi bàn, phổ ky.
Bụng to cần rốn sâu lớn, nếu rốn lồi không tốt.
Sách tướng có câu: “Tễ khả nạp quất”, rốn có thể nhét vừa quả quất, quý tướng.
LUẬN VỀ DỊ TƯỚNG VÀ PHÁ TƯỚNG
Trước khi luận bàn độc giả hãy đọc câu chuyện dưới đây:
- Đời vua Khang Hi nhà Thanh, có đại văn hào Kỷ Hiểu Lam tự là Văn
Đạt, tài cao học rộng, một danh thần trong triều, giầu sang phú quý
tiếng tăm lừng lẫy.
Thế nhưng tướng mạo của ông lại rất tầm thường, tầm thường như một
tên ăn mày. Cùng thời có vị thầy tướng, hết sức bất mãn đối với hiện
tượng Kỷ Hiểu Lam, không rõ tại sao tướng thì tướng hành khất mà sự
nghiệp lại là sự nghiệp đại thần nhất phẩm.
Thầy tướng mới đổi danh đổi họ tìm cách tiếp cận Kỷ Hiểu Lam bằng
cách xin vào làm gia nhân hầu hạ đại quan để gỉải đáp cho đựơc mối hồ
nghi rất chướng mắt cho khoa tướng học.
Cả năm trời đằng đẵng thầy tướng mới có dịp khám phá. Chiều hôm ấy
gần giờ lên đèn, Kỷ Hiểu Lam trong thư phòng đọc sách. Thư phòng tối nhá
nhem, thầy tướng thấy đôi mắt của Kỷ Hiểu Lam rất lạ, nếu người khác đã
phải đốt đèn lên mới đọc được nhưng Kỷ Hiểu Lam không cần vì mắt của
ông như có hai luồng ánh sáng phóng ra cho nên ông vẫn thản nhiên ngồi
đọc. Thầy tướng bất giác kêu lên “Nguyên lai quý tại ư thử”. (À ra quý
tướng là vậy).
Kỷ Hiểu Lam nghe tiếng kêu quay mặt lại, mặt ông vòng ra đằng sau, mắt có thể tự nhìn thấy lưng mình.
Thầy tướng nói:
-Xin đại nhân tha cho. Tôi là thầy tướng, vì thấy tướng mạo đại
nhân vốn là tướng hành khất lại ở ngôi vị nhất phẩm, lòng nghi hoặc nên
mới giả gia nhân để dò cho ra dị tướng nào đó mà tôi đoán quyết nhất
định phải có. Nay đã tìm thấy nên kinh động đến đại nhân. Đại nhân có
hai dị tướng, một là nhãn hữu quang thái, mắt phát ra quang thái, nhãn
năng phản cố kỳ bối, quay mắt lại có thể nhìn thấy lưng, cả hai thuộc
cách cục long hình, mười đục một thanh đại quý tướng.
Trong khi hai người đang nói chuyện thì thân phụ của Kỷ Hiểu Lam ở
ngoài bước vào, nghe thầy tướng nói Lam có tướng hành khất, cụ chợt nhớ
lại việc cũ. Cụ nguyên là một viên ngoại gia tài to lớn, tâm tính trung
hậu ưa làm điều thiện. Nhưng quá 40 tuổi vẫn chưa có con, nên cả hai vợ
chồng ngày đêm cầu trời khẩn phật cho mình một người nối dõi.
Một đêm kia, cụ Kỷ nằm mộng thấy người mặc áo xanh dẫn cụ đến ngôi đền nguy nga để gặp Quan Thánh Đế Quân, ngài bảo cụ:
- Nhà ngươi tích thiện lâu đời, nay ta cho vợ chồng ngươi một đứa nhỏ.
Nói rồi Quan Thánh Đế Quân đưa cụ ra ngoài vườn, trong vườn có lũ
trẻ ăn mày quần áo rách tả tơi đang chơi đùa. Ngài vẫy tay g̣ọi một
thằng bé tới vuốt đầu nó giao cho cụ Kỷ. Vừa lúc ấy cụ Kỷ thức giấc.
Cùng ngày này phu nhân viên ngoại mang thai sinh ra Kỷ Hiểu Lam.
Đọc câu chuyện trên xin chú ý 2 điểm:
-Dị tướng và mười đục một trong (thập trọc nhất thanh).
Dị tướng là những điểm kỳ lạ mà người thường không có.
Tỉ dụ, ông Hán Cao Tổ chân bên trái mọc 72 cái nốt ruồi, ông Lưu Bị tay để xuôi dài quá đầu gối.
Sách “Tướng Lý Hành Chân” có chép 1 bài phú về dị tướng của tiền nhân:
Lưu tiên chủ thùy thủ quá tất hữu tam phần thiên hạ chi chứng...
Tần Cối đăng đàn bái tướng vì mắt phát dạ quang. Trần Bình mặt sáng
như ngọc thân cư cửu đỉnh. Vệ Thanh nhờ cái trán gan úp mà thực lộc vạn
chung. Lông mày vua Nghiêu hiện bảy màu. Mắt vua Thuấn hai con ngươi.
Vua Văn Vương ngực nổi bốn vú. Đức Khổng Tử mắt lớn miệng rộng. Mã Chu
vai chim ưng, vương tá Đường triều. Vương Đôn mắt ong, tiếng báo tất bị
người giết. Đổng Trác rốn lớn có thể nhét ba trái quít. Bà Lã Hậu âm mao
dài quá gối. Lã Đồng Tân đắc ̣đạo thành tiên do hạc hình qui tức. Lưng
rồng mắt phượng Quách Phần Dương xuất tướng nhập tướng...
Dị tướng có thể cực tốt có thể cực hại. Nhưng theo kinh nghiệm phần lớn dị tướng đem đến sự tốt nhiều hơn sự hại.
Dị tướng không chỉ thể hiện lên từng điểm trên các bộ vị mà còn hiện thành nghi biểu vóc dáng.
Tướng pháp cổ nhân phân định bảy nghi biểu dị tướng gồm có:
- Tướng hình dung cổ quái
- Tướng hình dung tú lệ
- Tướng hình dung non (như lá chuối non)
- Tướng hình dung thanh kỳ
Thanh kỳ, tú lệ, cổ quái tốt. Non cực xấu, yểu tướng. Đa số dị
tướng là kết quả của nguyên tắc thập trọc nhất thanh (mười đục một
thanh).
Sách dạy rằng:
“Tiện trung hữu quý năng tác cao quan” (trong tiện có quý làm quan cao)
Thế nào là tiện trung hữu quý?
“Thần Tướng Toàn Biên” viết:
- Trán nhỏ mà vuông thẳng, mắt nhỏ mà sáng trong, mũi nhỏ mà sống
mũi cao thẳng, tai nhỏ mà triều miệng, bụng nhỏ mà xệ xuống, miệng nhỏ
mà đỏ hồng như tô son, thân nhỏ mà tam đình đều đặn ngay ngắn, môi cong
mà răng như chuỗi ngọc.
Như vậy là đục mà có thanh.
Nếu trán rộng mà cằm lẹm, xương cốt cao tủng mà da dẻ thô, ngực
rộng mà lưng có rãnh, đi đứng đường bệ mà tiếng nói như ngựa hí, lưng
dầy mà ngón tay que củi, tai lớn đầy đặn mà bước đi ẻo lả, lưỡi đỏ mà
miệng thổi lửa, đầu dài mà eo gẫy gập, ăn nói ôn tồn mà tinh thần si
ngốc, người to lớn mà tiếng lí nhí, mặt ngắn mà mắt quá dài.
Như vậy thanh mà kèm theo đục.
Thà đục mà có thanh còn hơn thanh kèm theo đục.
Thế nào là thập trọc nhất thanh?
Lã Văn Đức khi sinh ra tướng mạo xấu xí đến nỗi cha mẹ phải mang
dấu đi, không muốn cho ai trông thấy sợ họ chê cười. Lúc lên mười tuổi
có vị cao tăng gặp Đức lấy làm kỳ lạ tìm đến bảo cha mẹ Đức rằng:
- Thằng bé có mắt lộ kim quang (ánh sáng như vàng) ngày sau ở ngôi vị tôn quý.
Mười cực xấu mà có một cực tốt thì một cực tốt sẽ xóa bỏ mười cực xấu.
Đó là nguyên tắc “Nhất quý để cửu tiện” của tướng học.
Nếu thập thanh nhất trọc (mười thanh một đục) thì lại là phá tướng rất nguy hại.
Đã thanh phải thanh toàn.
Tư Mã Đức Tháo coi tướng cho Triệu Tử Long nói:
- Tướng quân có phúc tướng, trên mặt hiện năm loại kỳ tướng, cuộc
đời sẽ được toàn trung toàn tín, chết an nhiên. Bộ tứ độc liên tiếp lưu
thông công danh đến bạc đầu. Đôi mắt sáng trong suốt đứng giữa tên đạn
cũng không bị thương. Vóc dáng hiên ngang, hòa nhã, trí cao gan dạ nhưng
nhân từ.
Như tướng Triệu Tử Long là thanh toàn.
Nếu mười cái thanh gặp một cái đục sẽ xóa bỏ hết mười thanh.
Một đục ấy tướng học gọi bằng danh từ phá tướng.
Phá tướng có ám phá và minh phá.
Minh phá hiện nổi ra bên ngoài. Tỉ dụ, người cao lớn vai to, trán rộng, thân thể nặng khôi vĩ nhưng bị cái cằm lẹm.
Còn ám phá tiềm ẩn bên trong. Tỉ dụ thể mạo đáng bậc nhất phẩm
nhưng hình hôi hám, mồ hôi thường tiết đêm ngày bất kể nóng, rét hoặc
nằm ngủ hay nói mê nói sảng liên miên.
Cuối Thanh triều, tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Minh Kỳ rất thích
khoa tướng mệnh học, thường triệu thỉnh các nhà tướng số khắp nơi về đàm
luận.
Có người cho biết ở chùa Hải Động vùng Hà Nam, một vị sư trụ trì tên là Trí Quả giỏi xem tướng lắm.
Trương Minh Kỳ muốn thử tài bảo gia nhân là Ngô Trung hóa trang làm
tổng đốc Lưỡng Quảng đi với quân hầu nghi tướng tới chùa Hải Động vãn
cảnh. Sở dĩ ông chọn Ngô Trung vì Ngô Trung trông dáng vóc hậu trọng
khác với ông tướng mạo xấu xí. Trung vào chùa lễ phật xong mới nhờ hòa
thượng coi tướng.
Hòa thượng nhìn Ngô Trung một hồi chắp tay vái mà nói:
- Ngài thực là nhất phẩm đại nhân, tuy nhiên, xem tướng cao quan chúng tôi chỉ xin ghi vào trong giấy, nói thẳng e vô lễ.
Dứt lời hòa thượng xin cáo vào nhà trong, viết mấy chữ nhét vào phong bì cho chú sa di cầm đưa cho Ngô Trung.
Ngô Trung mang về cho Trương Minh Kỳ mở ra thì thấy có đề mấy chữ:
Đầu đại vô giốc
Phú đại vô thác
Phi quan phi loạn
Phú gia nô bộc.
Nghĩa là:
Đầu lớn không có góc cạnh
Bụng to mà lùng bùng
Chẳng quan chẳng cách
Chỉ là đầy tớ nhà giầu.
Trương Minh Kỳ vỗ án cười ha hả, thầm phục Trí Quả hòa thượng thật tinh đời.
Nửa năm sau, Trương Minh Kỳ cải dạng anh lái buôn đến chùa Hải Động
nhờ hòa thượng xem cho vận mệnh hanh thông, tương lai ra sao?
Ngắm Trương rất lâu, hòa thượng Trí Quả nói:
- Nhìn tướng mạo ông toàn thấy ngoại biểu cô hàn nhưng nghe tiếng
ông nói âm vận lại dị thường, thanh lãng kỳ lạ, ông có tướng dung tục mà
kèm theo thanh.
- Ông có thể cho tôi xem ám tướng để quyết định lời đoán được không?
Trương Minh Kỳ gật đầu, xem xong ám tướng, hòa thượng phê vào giấy:
Chu thân cô hàn tướng
Đỗ nội độc hữu tứ phương trường
Vị cực đại thần
Xuất tướng nhập tướng
Nghĩa là:
Toàn thân đều một tướng cô khổ bần hàn
Chỉ bộ ruột trong bụng hình vuông
Tất ở ngôi vị đại thần xuất tướng nhập tướng.
“Đỗ nội tứ phương trường” là cái tướng mà trong “Nam Hải Dị Nhân” có nói ông Mạc Đĩnh Chi ỉa cứt vuông vậy.